Đặng Tiến
Vănnghệsôngcửulong
Hàn Mạc Tử tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh
ngày 22 tháng 9 năm 1912, tại thị xã Đồng Hới, chính xác là làng Lệ Mỹ, tổng Võ
Xá, huyện Phong Lộc, tỉnh Quảng Bình, trong một gia đình công chức, công giáo
thuần thành.
Rửa tội tại giáo xứ Tam Tòa, Đồng Hới, ngày
25-9-1912, tên thánh là Phan xi Cô (François). Thêm sức tại nhà thờ Quy Nhơn,
1933, dưới tên Phan xi cô Xa- viê.
Học tại Quảng Ngãi, Qui Nhơn. Ra Huế, học
trường thầy dòng Pellerin (Bình Linh) xong năm thứ nhất bậc trung học, 1930,
thì thôi học. Về ở Quy Nhơn. Làm sở đạc điền được ít lâu, sau bỏ sở. Vô Sài
Gòn, 1934, làm báo một thời gian, trợ bút cho báo Sài Gòn, rồi trở về Qui Nhơn
1936, khi sức khỏe sa sút.
Bắt đầu làm thơ Đường từ năm mười lăm tuổi, ký
nhiều bút hiệu: Minh Duệ Thị, Phong Trần, Lệ Thanh. Từ 1935 chuyên làm thơ mới,
ký Hàn Mặc Tử, cuối cùng là Hàn Mạc Tử. Đã đăng thơ trên các báo Phụ nữ Tân
văn, Sài Gòn, Trong khuê phòng, Đông Dương tuần báo, Tân thời, Người mới.
Chứng bịnh phong cùi hiểm nghèo buộc ông phải
sống ẩn tránh, trong đau đớn cả tinh thần, thân xác lẫn vật chất, nhưng đã đem
đến cho Hàn Mạc Tử nhiều thi tứ đặc biệt, thanh thoát, như một vùng trú ẩn cần
thiết cho cõi linh hồn đau khổ triền miên.
Thi phẩm đã công bố : Gái Quê (Tự xuất
bản, in tại nhà in Tân Dân, Hà Nội,1936, 34 bài thơ, tựa của Phạm Văn Ký); Thơ
Hàn Mạc Tử (Tuyển tập, nxb Đông Phương, Hà Nội, 1942, tranh vẽ của Phạm Tú.
Nhà Tân Việt, Sài Gòn, tái bản, 1959).
Tại trại phong Qui Hòa, ngoại thành Quy Nhơn,
Hàn Mạc Tử trút linh hồn ngày 11 tháng 11 năm 1940, hưởng dương 28 tuổi, được
mai táng ngay hôm đó tại nghĩa địa trại Quy Hòa.
Số phận ngắn ngủi của ông là một thiệt thòi
lớn cho nền văn học đất nước, vì ông được coi như một nguồn thơ tinh khôi và kỳ
lạ bậc nhất trong thi ca hiện đại.
Đặc biệt là nguồn thơ cảm hứng từ đức tin
Thiên Chúa, và phản ánh đức tin này qua tác phẩm,
là đề tài cho chuyên luận dưới đây.
*
Cuối 1942, trong Nhà văn hiện đại, Vũ Ngọc
Phan đã nhận xét: ‘Từ ngày Hàn Mạc Tử từ trần đến nay, mới trong
khoảng hai năm trời mà người ta đã nói rất nhiều, viết rất nhiều về Hàn Mạc Tử”.
[1]
Và đến nay, bao nhiêu giấy mực đã được dành
cho nhà thơ bạc mệnh. Có lẽ ở miền Nam, Hàn Mạc Tử là thi sĩ được nhắc nhở
nhiều nhất. Nhưng e rằng dù vậy sự hiểu biết của chúng ta về thi tài đó vẫn
không tiến bộ được bao nhiêu. Có lẽ lại lùi lại nữa là khác. Năm 1941, Hoài
Thanh muốn nói đến Hàn Mạc Tử đã hỏi mượn thơ do Trần Thanh Địch giữ[2].
Cùng năm đó, khi viết cuốn Hàn Mạc Tử, có lẽ Trần Thanh Mại cũng dùng
nguồn tài liệu đó, tức là của em mình. Ngày nay, 1970, ngoài tập Thơ Hàn Mạc Tử
mỏng manh của nhà xuất bản Tân Việt tái bản 1959, chúng ta không còn thi liệu
nào khác. Chính Quách Tấn, bạn thân, ân nhân, người đã được nhà thơ ký thác
trọn vẹn tác phẩm, cũng tỏ vẻ không có nhiều tài liệu hơn chúng ta. Trong bài
nói về nhà thơ quá cố đăng trên Văn, Quách Tiên sinh, khi trích thơ Hàn
Mạc Tử đã làm một việc mà ai cũng làm được, như Vũ Ngọc Phan đã làm, nghĩa là
trích từ tập thơ in 1942 kia, hay trích lại của Trần Thanh Mại và Hoài Thanh –
trừ vài bài tứ tuyệt không mấy quan trọng. Nhưng ông ấy may mắn có được đọc tập
Gái Quê, xuất bản vào sinh thời tác giả. Lý do rất giản dị: chiến tranh đã làm
thất lạc hết tài liệu, mặc dù Quách Tấn giữ gìn cẩn thận, sao nhiều bản gửi Bộ
Giáo dục Nam triều thời đó và tất cả ban bè của Tử[3].
Như vậy trong mọi hành trình vào tác phẩm của
Hàn Mạc Tử, chúng ta sẽ giẫm chân tại chỗ, đua nhau kể cuộc đời ái tình và sự
nghiệp của nhà thơ - dĩ nhiên là éo le gay cấn, nhưng không giúp hiểu thêm
trước tác, sức sáng tạo thi ca, được bao nhiêu . Dù cho một vài bài quan trọng,
như của Quách Tấn trên số báo Văn thượng dẫn, ngoài việc đưa ra một số
sự kiện chung quanh việc sáng tạo của Hàn Mạc Tử còn bổ chính nhiều điều do
Trần Thanh Mại đề xuất trong cuốn biên khảo về Hàn Mạc Tử [4] xưa
nay vốn là tài liệu tham khảo căn bản cho mọi người.
Về cuộc tranh tụng giữa hai họ Quách và Trần
năm 1942, thì chúng tôi không có ý kiến gì. Nhưng xin tán đồng Quách Tấn về hai
điểm: thứ nhất là Trần Thanh Mại ẩu, thứ hai là ông không hiểu thơ, và cứ ưa
phê bình thơ, và Vũ Ngọc Phan cũng đồng ý như vậy [5]. Tuy nhiên,
nếu không có cái ẩu, cái trích dẫn bừa bãi của họ Trần, thì các nhà nghiên cứu
về sau – kể cả Quách Tấn – lấy đâu ra thơ Hàn Mạc Tử để tham khảo, sau khi
người giữ bản quyền để thất lạc hết di thảo ?
Tưởng khi nói chuyện ba mươi năm về trước,
Quách Tiên sinh không nên chua cay mới công bình[6].
Chúng tôi trình bày những khó khăn về tài liệu
đó là có ý rào đón những thiếu sót trong bài này, khi đề cập đến một đề tài hệ
trọng và bao quát : đức tin Thiên Chúa giáo trong thơ Hàn Mạc Tử. Chúng tôi
không khám phá ra điều gì mới mẻ, mà chỉ khai triển một nhận xét của các ông Vũ
Ngọc Phan, Hoài Thanh, cách đây mấy mươi năm. Chúng tôi chỉ đào sâu thêm tác
phẩm để có một cái nhìn nhất quán trên toàn thể thi phẩm. Thay vì trích dẫn
những câu có hình thức tôn giáo như Maria, linh hồn tôi ớn lạnh, thì
chúng tôi mong chứng minh là cấu trúc toàn bộ của thơ Hàn Mạc Tử , phần nào, đã
vang vọng lời truyền giảng của Phúc Âm.
Bài này chia làm nhiều phần :
- Nhận định tổng quát
- Gái Quê : thế giới đợi chờ
- Đau Thương : con người sáng tạo và mơ ước
- Xuân như ý : Thế giới khải huyền.
“Tôi đã sống mãnh liệt và đầy đủ. Sống bằng
tim, bằng phổi, bằng máu, bằng lệ, bằng hồn. ..Thôi mời cô cứ vào... ánh sáng
lạ trong thơ tôi..”[7]
Đối với Hàn Mạc Tử thơ và đời sống là một, bất
khả phân, nhất là khi lâm trọng bệnh. Nàng đánh tôi đau quá, tôi bật
ra tiếng khóc, tiếng gào, tiếng rú (tr. 8). Tác phẩm của Hàn mang tên là Thơ
Điên, sau đổi là Đau Thương vì nó là Đau Thương, là “kinh nghiệm
trước hết của một con người, một thực tại con người ngay trong thân phận”[8].
Vũ Ngọc Phan nhận xét: “Có lẽ ông là người
Việt Nam Nam ca ngợi Thánh nữ Đồng trinh Maria và Chúa Jésus bằng thơ
trước nhất. Ông ca tụng đạo Gia-tô rất chân thành. Lần này cũng là lần đầu, thi
ca Việt Nam thấy được một nguồn hứng mới”[9]. Hoài Thanh nới
rộng đến tương quan giữa tôn giáo và dân tộc, “Thơ Hàn Mạc Tử ra đời, điều
ấy chứng tỏ đạo Thiên Chúa ở xứ này tạo ra cái không khí có thể kết tinh
lại thành thơ. Tôi tin rằng chỉ những tình cảm có thể diễn ra thơ mới thiệt là
những tình cảm đã thấm tận đáy hồn đoàn thể”. Nhận xét này của một kẻ “thiếu
lòng tin, du khách bỡ ngỡ”[10] là Hoài Thanh mang ý nghĩa đặc
biệt : trong Gia-tô giáo Việt Nam, niềm tin Thiên Chúa đã nhập vào tín ngưỡng
thuần túy Việt Nam. Và thơ Hàn Mạc Tử minh chứng điều đó : một đức tin Việt Nam
ở Thiên Chúa, diễn đạt bằng lời ăn tiếng nói Việt Nam, mà ngôn ngữ thi ca là
thành phần tinh túy. Đó là điều chúng tôi muốn trình bày qua một bài báo ngắn
Duy chỉ khai triển thêm một ý của Hàn trong
lời tựa tập Đau Thương, viết năm 1938: Người đang say sưa đi trong Mơ
uớc, trong Huyền diệu, trong Sáng láng và vượt hẳn ra người Hư linh...(tr.
7) trong đó người đọc gặp lại những chủ đề cương lĩnh của Kinh Thánh: một vũ
trụ ngây thơ đổ vỡ vì nguyên tội; những khổ hạnh của thân xác như một kinh
nghiệm của Mơ Ước và Huyền Diệu, để vươn tới một thế giới khác, sáng láng ngoài
Hư linh, thế giới của Phục Sinh, của Khải Huyền. Ba giai đoạn đó là cơ cấu của
nguồn thơ Hàn Mạc Tử.
Vũ trụ Gái Quê đã sụp đổ trong Đau
Thương mà nhà thơ đã chịu đựng để đợi sống lại một mùa Xuân Như ý.
Ai nói vườn trăng là nói vườn mơ. Ai nói bến
mộng là bến tình. Người thơ là khách lạ đi giữa nguồn trong trẻo. Trên đầu
người là cao cả, vô biên và vô lượng; chung quanh người là mơn mớn với yêu
đương...(
Tựa Đau Thương)
Những dòng mở thi phẩm không khỏi làm ta nhớ
đến thiên Sáng Thế Ký mở đầu Cựu Ước. Nhưng vườn, đây không nằm ở hướng
đông như vườn Eden (“Gen II.8”), mà chỉ là một vườn mơ, bến mộng,
niềm nhớ nhung đằng đẵng về một hạnh phúc nguyên thủy. Hạnh phúc của nguồn
trong trẻo mà loài người phải từ giã ra đi, và bị cấm cản đường về (“Gen
III, 24”). Nguồn ở đây là dòng sông trước khi chia làm bốn nhánh, tưới
vườn Eden bằng tình yêu cao cả, vô biên và vô lượng, chưa bị giới
hạn vì nguyên tội, khi con người chưa khó nhọc, chưa đổ mồ hôi, chưa biết chông
gai và mùi cát bụi (“Gen III 17, 18 và 19”). Bài tựa 1938 của Hàn Mạc Tử đã mơ
ước khôi phục lại mùa xuân trinh nguyên của ngày sáng thế, đầy thinh sắc, tinh
hoa và châu báu, như nhũ hương và bích ngọc bên bờ nhánh sông thứ nhất (“Gen
II, 12”). Thơ Hàn, cũng như lòng lê thứ, nói như Pascal, là niềm hoài vọng bất
lực về một hạnh phúc sơ khai, một tráng lệ đã phôi pha
Còn đâu tráng lệ những thời xanh
Mùi vị thơm tho một ái tình
Đố kiếm cho ra trong lớp bụi
Ít nhiều hơi hướm của kiên trinh
Sau khi phạm trái cấm, loài người không mang
nguyên tội ra khỏi địa đàng rồi dựng lại một bình an khác. Với tội kiêu căng,
loài người phải chịu bao nhiêu hưng phế: từ Hồng Thủy cho đến cơn thịnh nộ của
Thiên Chúa hủy tháp Babel, thành Sodome và Gomorrhe, bao nhiêu lớp bụi phế hưng
đã lấp mất cánh đồng xanh lẫn “ ít nhiều hơi hám của kiên trinh”
Hồn xưa tự ấy không về nữa
Ở cõi hư vô dấu đã chìm
Dân Do Thái, lưu linh còn hy vọng có ngày tìm
về đất Hứa, còn con người đã vĩnh viễn đánh mất tất cả tráng lệ của thời
xanh. Nhưng thơ Hàn Mạc Tử vẫn là mơ ước, một đón đợi, như Cựu Ước là sự
chờ đón đấng Cứu Thế. Trong Gái Quê và những bài đầu Đau Thương,
thơ là niềm mong đợi
Trước sân anh thơ thẩn
Đăm đăm trông nhạn về
Ngày xuân mong đợi đó còn thuần lương, là một
mùa xuân ngoại đạo – một thứ printemps paien- hồn nhiên và vô tư lự, như tất cả
những hội hè của mùa xuân Việt Nam.
Trong làn nắng ửng khói mơ tan
Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng
Sột soạt gió trêu tà áo biếc
Trên giàn thiên lý – Bóng xuân sang
Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời
Bao cô thôn nữ hát trên đồi
-- Ngày mai trong đám xuân xanh ấy
Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi.
Cái hồn hậu đó, như Hoài Thanh đã nói “chỉ
là một mùa xuân đầu năm”[11], tôi nói thêm là một thế giới đợi
chờ để nở lên một mùa xuân sáng thế “hồi trời đất mới dựng lên” hay mùa
xuân tái tạo “ra đời một lần với chúa Jesus”.
Khác biệt đó không có gì mâu thuẫn và Hoài
Thanh cũng không cần ngại người đồng đạo với nhà thơ sẽ khó dễ vì một hai dấu
tích Phật giáo còn sót lại. Quách Tấn còn cực đoan hơn: “Tôi nhận thấy vang
bóng của đạo Phật có phần đậm hơn Thiên Chúa”[12]. Sự phân lượng
e rằng khó cân đo chính xác nhưng vết tích Phật giáo và ngay cả Lão giáo, Khổng
giáo trong thơ Hàn Mạc Tử đậm đà, từ trong rung cảm đến ngôn ngữ. Điều đó không
có gì là nghịch lý cả; hạt mầm Thiên Chúa giáo, khi nảy nở trên đất Việt Nam
thì tự nhiên thích ứng với khí hậu, phong thổ. Gần đây, tình cờ tôi có đọc tác
phẩm của linh mục người Pháp, Jacques Dournes nói về việc truyền giáo tại bộ
lạc Jorai, Tây nguyên Trung Bộ. Sách có nhiều điểm tế nhị và sâu sắc, nhằm bảo
vệ truyền thống một thị tộc: “Cơ quan hành chánh phát cho dân Jorai hạt
giống bông vải gốc Phi châu, năng suất cao hơn giống địa phương; dân
Jorai đã gieo hái, nhưng chỉ một lần thôi rồi không tiếp tục. Lý do là họ phải
nhuộm chỉ trước khi dệt, và thuốc nhuộm làm bằng lá cây của họ không ăn vào chỉ
bông nhập cảng. Họ lại trở lại với giống bông cũ. Từ đó tôi không quên bài học
bông vải”[13]. Và khi viết bài này, tôi lại càng
không dám quên bài học quý hóa của một vị linh mục ngoại quốc, về sau đã có
thêm nhiều đóng góp về hiểu biết các bộ tộc anh em ở Tây Nguyên.
Theo Quách Tấn, gia đình Hàn Mạc Tử (dường
như) theo đạoThiên Chúa từ đời nội tổ Tử, tên Phạm Bồi, vì liên can quốc sự nên
dời quê, được một linh mục Pháp đỡ đầu, vào lập nghiệp tại Thừa Thiên. Thân
sinh Hàn Mạc Tử là Nguyễn Văn Toản đổi sang họ Nguyễn ; học Đại Chủng viện Huế,
đến chức Thầy Tư rồi bỏ ra đời[14] làm công chức ngạch thương chính.
Ông sinh hạ được sáu người con và đặt tên là Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín. Hiếu.
Dài dòng như vậy là để trình bày không khí và giáo dục gia đình nhà thơ, thấm
nhuần nho giáo, một mảnh đất mới đang hấp thụ đức tin Ki Tô giáo, đang dần dần
thấm nhuần ơn trìu mến.
Tôi là trăng cổ độ
Lượng trời rộng bao la
Phải, lòng chàng là bến đợi. Trong những kích
thước mông mênh; có thể là một trời thu man mác; có thể là hàng
cau nắng mới lên; thường thường là một đêm trăng sao đắm đuối. Vâng,
như đón từ xa. Như đợi từ xa:
Cho ta nhận thấy không đền đáp
Ơn trọng thiêng liêng xuống bởi trời.
Nhưng chàng đã đền đáp. Bằng tất cả. Đau
thương: tiếng Thơ và cuộc Sống. Chàng đã đem cuộc đời để trả lời ơn
phước cả đang ngân vang trong màu nhiệm phủ ban đêm, một
tiếng gọi của thượng tầng không khí. Từ lúc nhận điềm có tiên tri thì vũ
trụ trong Gái Quê và nhũng bài Đau Thương đầu tiên nhuốm ý thức
nguyên tội, người lương sẽ gọi là mặc cảm tội lỗi. Những bài đó gợi cảm giác có
tội trước khi phạm lỗi. Vũ Ngọc Phan và Hoài Thanh đồng ý rằng tập Gái Quê
thiên về dục tính; có lẽ ta cần minh định thêm về khuynh hướng ấy. Một người
chỉ xin hoa đền ngự và lòng ni cô thì dục tính... đi tới đâu? Tôi
xin giải thích thêm về điểm này:
Mới lớn lên trăng đã thẹn thò
Thơm như tình ái của ni cô
Tại sao trăng lại phải thẹn thò? Thẹn thò là
cảm giác của Adam và Eva khi lấy lá che thân lánh mặt Đức Chúa Trời (“Gen III,
7-8”) sau khi ăn trái cấm. Họ thẹn thò vì phạm lỗi. Còn Trăng việc gì mà phải
thẹn thò nhất là khi mới lớn lên? Sự thẹn thò của thân thể, con người đã thừa
kế của Adam, cho nên ta mới có thể nói : không khí rạo rực trong Gái Quê
là di sản của nguyên tội. Những câu thơ mà Vũ Ngọc Phan cho là “ gợi tình,
thiên về xác thịt”[15] là một dục vọng, nhưng đồng thời cũng là
một cấm đoán, một lãnh cảm:
Da thịt trời ơi trắng rợn mình.
Hàn Mạc Tử nhắc đến tình ái của ni cô,
hay da thịt của nàng dâu để gợi lên cái vô tội của con người trong một
thế giới đã hư hỏng vì nguyên tội, mà mình phải gánh chịu. Ngay trong giáo lý,
dục tính, tự nó, không phải là tội lỗi: “Đó là một căn bệnh, chứ không phải
tội lỗi. Tuy nhiên căn bệnh đó là hình phạt của tội lỗi”[16]
tác giả muốn nói đó là nguyên tội; và “ dục tính, bản năng sinh lý
như ta thường thấy là tiếng gào phản kháng của một hình hài bị thương tổn”[17]
Nhà thơ dự phóng những rạo rực của bản năng ra
ngoài vũ trụ; cái nhìn của chàng vuốt ve, mơn trớn với yêu thương, tất cả tạo
vât. Từ ánh trăng, đến cành liễu, mặt hồ, cơn gió, cho đến bài thơ của người
yêu, tất cả đều nồng nàn da thịt, tất cả đều tương giao trong nguồn ái ân ràng
rịt trăm giây quyến luyến:
Trăng nằm sóng soải trên cành liễu
Đợi gió đông về để lả lơi
Cây lá ngây tình không muốn động
Lòng em hồi hộp, chị Hằng ơi
Dục tính trong đoạn thơ nằm trước hết trong
cách chọn chữ gợi tình, khi đi đôi với nhau như trăng và gió, trong thành ngữ
phong nguyệt hay gió giăng. Hoặc trăng và hoa, hoặc liễu và hoa; trong những
hình ảnh nguyệt hoa hay ghẹo nguyệt trêu hoa, hay liễu ngõ hoa tường. Hay hình
ảnh “ nguyệt hoa hoa nguyệt trùng trùng” trong thơ xưa.
Đoạn thơ lại khêu gợi bằng những hình ảnh táo
bạo đến suồng sã như nằm sóng soải, lả lơi, ngây tình; cuối cùng
cơn mê đắm còn biểu lộ trong những ý tưởng lộ liễu. Tất cả những chữ, hình ảnh,
ẩn dụ, những ý tưởng đó giao thoa thành một không khí lả lơi, vừa cợt nhả vừa
tinh tế, tuy có suồng sã nhưng không phải là không khéo léo. Thơ gợi dục tính
của Hàn Mạc Tử, cùng với thơ Bích Khê, bạn thân của Hàn, dường như là môn đệ,
có lẽ táo bạo bậc nhất trong thi ca mới; cái tài tình của Hàn, khác với Bích
Khê, là táo bạo đến đâu vẫn còn nét ý nhị.
Một cử chỉ, câu nói sống sượng khi tự nó, nó
nói hết những điều muốn nói, và đôi khi còn nói luôn những điều không nói. Ở
Hàn Mạc Tử – ít ra ở những bài còn lưu truyền đến ngày nay – dù hở hang đến
đâu, vẫn còn úp mở của một ngôn ngữ ý nhị và tình tứ. Chúng ta không còn những bài
thơ như Hát Giã Gạo trong tập Gái Quê đã làm cho Vũ Ngọc Phan “ lợm
giọng”, nhưng dù muốn hay không, ta phải công nhận nhà thơ có một quan
niệm luyến ái thánh thiện, lành mạnh đến bệnh hoạn:
Cho nên tôi tưởng tối tân hôn
Chưa tới, còn xa để được buồn
Để sống trong niềm thương nhớ đã
Để còn mường tượng đến giai nhân
Đọc Hàn Mạc Tử ta có cảm giác một sự giằng co
giữa con người phóng túng và con người khắc khổ? Cái giọng tình của Hàn, dù có
cợt nhã, cũng chỉ tả một thứ tình hàm thụ, lối ái ân không tưởng, trong môi
giới giữa nhân sinh và tạo vật. Nói gọn hơn, nó không thể thỏa mãn, trong một
thế giới không tự mãn.
Vì vẫn còn là một thế giới đợi chờ Điềm Lạ,
trong lòng vũ trụ còn say chìm nơi bất giác, nhưng đã được các tiên tri chuẩn
bị để đóng mừng Ngôi Hai.
Hàn Mạc Tử mô tả thế giới đợi chờ, trước hết
bằng di sản hồn nhiên của một nền văn hóa ngoại đạo nhưng niềm nở và hướng
thượng, thứ đến bằng đức tin nuôi dưỡng trong Phúc Âm; hai phụ lưu sung mãn đó
đã đổ vào hồn thơ Hàn Mạc Tử, như một dòng sông vừa nhận được cơn nước nguồn
thác lũ bỗng phải vượt qua một địa thế hiểm nghèo: chứng phong nan y đã biến
hồn thơ hồn hậu thành một cuồng lưu khốc liệt, nếu không phải là một vùng nước
xoáy.
Đau thương. Tên một tập thơ, và tên một định mệnh. Hay
tiếng gầm rú của một cuồng lưu lâm vào tuyệt địa. Chúng ta nói qua sự đau
thương trong cuộc đời. Rồi trong thơ.
Hàn Mạc Tử nhuốm bệnh từ năm 1936. Hăm bốn
tuổi, tuổi anh hoa đang phát tiết “Khi biết mình đang mang bệnh hiểm nghèo,
Tử hết sức đau đớn, đau đớn đến phát điên. Thường ngày trong cơn thác loạn nổi
dậy, khi nhiều khi ít. Nhưng ngày rồi ngày, nỗi đau khổ hết phát hiện ra ngoài
một cách bồng bột, thì lại ăn sâu vào tâm hồn ngấm ngầm nung nấu nạn nhân, nung
nấu đến tột độ”[18]. Hàn Mạc Tử nhiều lần mô tả những
đau đớn của thân xác:
Thịt
da tôi sượng sần và tê điếng.
Tôi đau vì rùng rợn đến vô biên
Bên cạnh những hành hạ của bệnh trạng, Hàn Mạc
Tử còn phải đương đầu với hai hậu quả khác của hoàn cảnh: nghèo túng và tuyệt
vọng vì tình. “Hiện Trí về tạm ở nhà. Cái nguyên nhân là không tiền
uống thuốc. Bữa nay Trí xuống nhà bà thầy thuốc rồi. Có một mái nắng rọi nhiều
quá. Cả chiều nếu ở trong nhà thì phải đội mũ”[19] . Chúng ta
còn có nhiều tài liệu khác về nỗi cùng khốn của nhà thơ qua những bức thư gửi
Trần Thanh Địch, do Trần thanh Mại trích dẫn.
Về cuộc tình duyên đau khổ với Mộng Cầm, chúng
ta cũng có nhiều tài liệu. Đại khái hai bên yêu nhau khăng khít, thề bồi dữ dội
lắm, hẹn hò nhau từ Phan Thiết ra đến Qui Nhơn; khi Hàn Mặc Tử chịu tang cho
anh, thì Mộng Cầm tự xin phép được “ thành tâm cư tang cho ông anh một
năm cũng như anh, nghe anh” vì “ người cầm bút biên mấy hàng trên đây là
người em dâu chắc chắn, nhất định của anh rồi. Vậy ông anh nên phù hộ
cho chúng em thương nhau cho đến bạc đầu”[20]. Khi biết chàng lâm
trọng bệnh, thì nàng “thề” bồi lại một lần nữa đậm đà hơn”, để rồi sáu tháng
sau nàng đi lấy chồng. Trần Thanh Mại cho rằng nàng không đáng trách, “duy
có cái nàng lấy chồng hơi gấp đấy thôi”[21]. Quách Tấn cũng cho
biết là thái độ của Mộng Cầm đã gây ra cho nhà thơ “ một nỗi buồn thương vô
hạn”, “một phản ứng mãnh liệt”, những tiếng kêu rên thống thiết”[22].
Nghệ hỡi Nghệ muôn năm sầu thảm,
Nhớ thương còn một nắm xương thôi,
Thân tàn ma dại đi rồi,
Rầu rầu nước mắt, bời bời ruột gan.
( Mộng Cầm tên thật là Huỳnh Thị Nghệ)
Trời hỡi nhờ ai cho khỏi đói?
Gió trăng có sẵn làm sao ăn?
Làm sao giết được người trong mộng
Để trả thù duyên kiếp phụ phàng?
Trần Thanh Mại, tr 95
Tiếng kêu trầm thống đó chất chứa cả kiếp cùng
khốn vật chất lẫn tinh thần, cho đến ngày bị bệnh tàn phá đến thảm thê, theo
như một người bạn, cùng bị hủi, kể lại “hai mắt nằm lọt vào sâu hai lỗ hũm
sâu hóm, đến không còn mở ra được. Thân hình chỉ còn da bọc lấy xương, chân tay
thì co rúm lại, mà đầu tóc thì bù xù rối trết lại từng về, trong ấy nhô nhúc
những chí là chí” (thư của ông Nguyễn Văn Xê, để lại Qui Hòa ngày
25-6-1941)[23]. Chúng ta tưởng không có gì thê thảm hơn tình trạng
băng hoại đó. Ấy thế mà Hàn Mạc Tử can đảm chịu đựng nữa là đằng khác: “tuy
hơi cực khổ thế mà tôi vẫn an vui, ngày nào cũng có cười cả. Nếu không cười
với ai, thì cười một mình, xem ra thú vị không biết mấy”[24].
Một tự tình chua xót.
Niềm an vui kia, Trần Thanh Mại, người biết
cuộc đời thật của nhà thơ cho là “yêu quái” là “kinh dị”. Còn Vũ Ngọc Phan chỉ
biết Hàn Mặc Tử qua một số thi phẩm cũng không khỏi ngạc nhiên: “một người
mang bệnh rất đau đớn mà có một tâm thần thư thái, bình tĩnh như thế,
thật cũng lạ”[25]. An vui của Hàn Mặc Tử không phải
là cay đắng, gượng gạo, có khi nổ tung ra trong những câu thơ hơn hớn:
Hôm nay vui quá anh Phùng ơi
Buồn xa không đến lệ không rơi
Buồn không thắt ruột, tình không lại
Cười nói làm sao cho hả hơi?
(Trần Thanh Mại trích, tr 122)
Biết đâu là Đau thương giam cầm không kỹ,
thoát lọt ra trong một biến trạng dị kỳ
Họ Trần cho là “quái gở, thật đáng rùng
mình ”. Sở dĩ ông không hiểu can đảm của bệnh nhân, có thể là ông không
hiểu được sức mạnh của đức tin trong con người Hàn Mạc Tử. Khi đề cập đến vấn
đề này, Hoài Thanh, cũng là người ngoại đạo, nhưng tinh tường hơn Trần Thanh
Mại, thừa nhận ngay “Thiếu lòng tin tôi chỉ là du khách bỡ ngỡ”[26]
còn họ Trần thì cứ phán đoán ầm ĩ cả lên. Nhưng nhờ có ông mà chúng ta có được
một dữ kiện về đời sống tín ngưỡng của nhà thơ: “ Trong khi sưu tầm tài liệu
của nhà thi sĩ, tôi tìm thấy trong một nhà trọ của chàng, một mẩu báo dán trên
khung cửa sổ tre, đã nhàu nát vàng vọt, và nhìn lối in chữ và hình ảnh tôi biết
ngay là báo Vì Chúa. Đoạn bài đăng trên mẩu báo ấy nói về nguồn an ủi trong
bệnh tật cho rằng sự đau ốm là do đức Chúa Trời ban xuống cho ta, để thử lòng
ta, nên chẳng những là ta phải chịu một cách nhẫn nhịn mà còn nên vui vẻ bằng
lòng nữa”[27].
Căn cứ trên đoạn này tôi cho rằng tác giả
không mấy thông thạo giáo lý Gia- tô giáo. Nếu bài báo ấy có thật – Vì họ Trần
mãi cho đến ngày nay ở Hà Nội vẫn có cái cố tật là ưa bịa đặt tài liệu.[28]
- thì chúng ta tiếc rằng họ Trần không trích dẫn chính xác, cho biết rõ xuất
xứ, tìm xem báo Vì Chúa số mấy, ngày mấy, hoặc ít nhất cũng cho ta nguyên văn.
Vì theo kiến thức thô thiển của tôi, thì không có kinh sách nào dạy rằng “đau
ốm là do Chúa Trời ban ” và chúng ta phải “vui vẻ bằng lòng”.
Nhưng vấn đề ở đây không phải cãi nhau về giáo
lý, vừa ngoài phạm vi bài viết và thẩm quyền của tôi. Điều quan trọng là, Trần
Thanh Mại đã nói, đức tin “ đã ảnh hưởng tốt đẹp đối với chàng”.
Quách Tấn xác nhận điều này: “Tử tìm được nguồn an ủi lớn nhất trong nguồn
Đạo. Khi đã sống cùng Đạo thì tâm hồn Tử hết bị ray rứt dày vò”[29].
Chính nhà thơ đã kể lại một ngày bệnh tật của
mình: “ Lại đọc kinh, lại ngâm thơ, lại làm thơ, lại nhớ, lại nằm. Buổi tối
ăn xong, cũng vừa đi bách bộ vừa ngâm thơ một cách sung sướng nhất đời. Cả ngày
chỉ ngâm thơ và đọc kinh là nhiều hơn cả. Ngày nào cũng như ngày ấy, không thấy
buồn lắm, và ngày nào cũng mong mỏi một cái gì”[30].
Đối với Hàn Mặc Tử, Thơ là Đạo và Đạo là Thơ,
Thơ đã đạt tới Đạo và Đạo để đi tới Thơ, hoặc như Hoài Thanh đã nhận xét chí lí
“Thơ chẳng những ca tụng Thượng Đế mà cũng để nối liền người
ta với Thượng Đế”[31].( Sau này có chuyên gia thần học đã lưu ý
: danh xưng Thượng Đế không phù hợp với giáo lý Ki Tô giáo, mà là danh xưng
thường gặp trong Lão giáo, mặc dù Hàn có câu “ giàu sang hơn Thượng Đế.”)
Thơ đưa về Đạo, là nẻo đường đưa đến Con
Đường. Thơ là giải pháp tạm thời của Đau Thương, trong khi chờ đợi Đạo và Cứu
Rỗi miên viễn. Ngày nào cũng mong mỏi một cái gì. Nếu Gái Quê, như tôi
đã trình bày ở đoạn trên, là thế giới đợi chờ Điềm Lạ, đợi chờ Chúa Ra đời thì Đau
Thương là một tâm hồn mong mỏi Ngày Chúa trở lại (“Mt” 24-22) Hàn Mặc Tử
chấp nhận bệnh tật không phải là vì “do đức Chúa ban xuống” như Trần Thanh Mại
đã nói; nhưng trước hết vì nó là hậu quả của nguyên tội và thứ đến vì nó là
phương tiện thân xác mà Chúa đã dùng để cứu thế. Linh mục Charles Journet, giáo
sư Đại Chủng Viện Fribourg đã trình bày vấn đề một cách mạch lạc và nhất quán
trong tác phẩm về thống khổ: “Chúng ta xem khổ ải của thân xác như
một mãnh lực hợp - cứu- thế vì chúng ta dự vào đau đớn của Chúa Ki tô và trong
sự tham dự của chúng ta. Như vậy không nên nói đến chấp nhận Đau Thương mà chỉ
nên nói đến gia nhập vào công đức cứu rỗi; chúng ta không chấp nhận (accepter)
vì nó là một định luật của thể xác; chúng ta thu nhận (adopter) vì nó nối liền
bản thân Thiên – Chúa – hiện – làm – người.”[32]
Đoạn trên rọi sáng lời truyền dạy của sứ đồ
Saint Paul trong thư gởi cho người La-Mã: “Những khổ hiện tại không có nghĩa
lý gì so với những vinh hiển phải được thể hiện trong mỗi chúng ta. Mỗi hình
hài chờ đợi là một khát vọng sự thể hiện con cái đức Chúa Trời, với Mơ Ước được
giải thoát ra khỏi hư nát, và đạt tới tự do vinh hiển của con cái đức Chúa
Trời. Vì chúng ta biết rằng hình hài, đến nay vẫn rên xiết trong công trình thai
nghén” (“Rom”, VIII, 18-32). Đau Thương hôm nay là thai nghén cho ngày mai,
thai nghén một mùa Xuân như ý, Người Ki Tô giáo quan niệm đau thương như một
huyền nhiệm, nhưng hữu hạn, trước Chúa Trời là một huyền nhiệm, vô hạn.
Tôi thành thật nghĩ rằng Hàn Mạc Tử đã bình an
được trong Đau Thương – một hoàn cảnh thể xác, vật chất và tinh thần làm chúng
ta rùng mình - là nhờ huyền nhiệm đó, nhờ sức mạnh của xác tín. Có lẽ xác tín
đó, cộng với bệnh trạng, đã tạo một linh thị cho nhà thơ. Trần Thanh Mại và Quách
Tấn đồng ý “ là mỗi lần chàng chết đi sống lại (trong mấy năm bệnh chàng bị
chết đi sống lại bốn đến bốn năm lần) và chàng đều cảm thấy có bà Thánh Nữ
Đồng Trinh Maria đến cứu”[33]. Theo Quách Tấn thì bài thơ trứ
danh “ Maria! Linh hồn tôi ớn lạnh” được viết khi Tử sống lại,
trong cảnh đó[34].
Dù cho rằng mộng mị chỉ là một biến thể của
bệnh trạng, thì dưới ánh sáng của khoa phân tâm, ta có thể đi đến cội rễ của
mộng mị, dù xa lạ đến đâu. Cội rễ ở đây, là xác tín trong tâm hồn Hàn Mạc Tử,
người đã cam chịu hư nát để chuẩn bị cho một vinh hiển. Thật ra, niềm tin vào
cuộc sinh tồn mai hậu, của linh hồn, ở một thế giới khác, không phải đặc biệt
của Thiên Chúa giáo. Trong hầu hết các tín ngưỡng tự nhiên của dân gian, nước
nào cũng vậy, đều có mầm hy vọng của một đời sống khác. Chỉ nói đến vòng đai
tôn giáo chung quanh địa lý Thiên Chúa giáo, chúng ta có thể kể đến tư tưởng
Assyrien, Babylonien, và nhất là Ai - Cập, đều có niềm tin đó, như muốn: ra
không gian và vượt hẳn thượng tầng. Đức tin của Hàn Mạc Tử không phải ở chỗ
mong hồn tới tấp ở ngoài kia vũ trụ, mà ở chỗ tìm gặp Một Người ở cõi
quá thinh gian; Hàn Mạc Tử tìm tới chốn chiêm bao ngoài sự thực, không phải
vì chiêm bao đẹp hơn sự thực và “ứ đầy khoái lạc”. Mà chỉ :
Vì có đấng hằng Sống, hằng Ngự Trị
Nhạc thiêng liêng dồn trổi khắp hư linh
Bài “Ngoài vũ trụ”, mà tôi đã trích các
câu trên, tiếp theo hai bài “Hồn lìa khỏi xác” và “Siêu thoát”
soi sáng ý nghĩa của những bài Đau Thương và báo hiệu cho Quần Tiên
Hội, Cẩm Châu Duyên và Xuân Như ý.
Vậy ta có thể đề cập đến một kiến trúc trong
thi phẩm của Hàn Mặc Tử không? Chúng ta biết rằng sự sắp xếp thứ lớp trong
tuyển tập Thơ Hàn Mạc Tử, 1942 hay 1959, không phải do thi sĩ, mà những
người phụ trách tái bản thơ ông, tức là Quách Tấn hay Hoàng Trọng Miên gì đó.
Do đó, không ai dám dựa trên trật tự cụ thể của tập thơ để nói đến kiến trúc,
như Marcel Ruff đã nói về “ kiến trúc bí mật, architecture secrète” khi trình
bày nhất quán thi phẩm Hoa tội lỗi, Les Fleurs du Mal của Baudelaire.
Tôi vẫn theo lối sắp xếp trong ấn bản Tân Việt, 1959, vì nói chung nó phản ánh
thứ tự biên niên trong quá trình sáng tác; tôi nghĩ không ai bác bỏ thuyết cho
rằng Gái Quê sáng tác trước Đau Thương, Xuân Như Ý; và Cẩm
Châu Duyên, Duyên Kỳ Ngộ sáng tác sau cùng, thời kỳ nhà thơ biết Thương
Thương. Nhưng dù sao chúng tôi cũng dè dặt mong các nhà biên khảo sau này có
nhiều sử liệu chính xác hơn tôi, sẽ đào sâu cơ cấu mạch lạc của vũ trụ Hàn Mạc
Tử, trên bình diện này hay bình diện khác, hoặc trong nguồn sáng tạo toàn diện
thì càng nghiêm túc.
Khi đề cập đến kinh nghiệm đau thương của Hàn
Mặc Tử tôi tiếc chưa được đọc bài của Võ Long Tê, một chuyên gia về văn chương
Thiên Chúa giáo, về vấn đề này; nghe nói bài sắp sửa đăng báo, tôi đợi hoài
chưa thấy. Tôi cần nói thêm: không riêng gì Phúc Âm, những tín ngưỡng
khác của người Á Đông cũng tìm một giải đáp cho đau thương; Phật giáo thì cho
đó là những đợt sóng triền miên của Mê hà hay Khổ hải; Lão giáo thì cho đó là
định luật của Vô Tri. Cái can trường của nhà thơ là do đức tin vững chắc của Đấng
Cứu Thế, và đức tin đó đã được bồi dưỡng trong cái Dũng của triết lý Đông
phương lẫn cái kiên trì trong lòng dân tộc. Nói đến xác tín của Hàn Mạc Tử
không phải là tôi không biết (hay tệ hơn nữa, tôi không nhớ) đến những giá trị
bằng hữu kia. Khi suy nghĩ về khổ lụy của nhân sinh, tôi đọc lại kinh thánh
Coran của Hồi giáo thì có cảm giác, hời hợt thôi, như là họ không chấp nhận khổ
đau như người Ki-Tô giáo hay người Á Đông, vì họ cho là do sự hành hạ của Chúa
Trời. Vậy trong Hàn Mạc Tử có sự giao hòa giữa đức tin tôn giáo sung mãn và một
tâm hồn dân tộc niềm nở, tạo ra nguồn thơ hết sức sâu xa.
Trong tinh thần Phúc Âm, có thể Hàn Mạc
Tử đã sống trọn vẹn Đau Thương của hiện thế, trước hết vì đó là phương tiện
Chúa dùng để Cứu Thế, thứ đến để chuẩn bị cho vinh hiển mai sau, như lời giảng
trên núi, sửa soạn cho Ngày sống lại với Đấng Hằng Sống, hằng Ngự Trị. Nhưng
trên bình diện sáng tạo, quan niệm Đau Thương đó đã thể hiện ra sao? Tôi
tiếc là không được đọc bài báo của Lê Tuyên về những chủ đề trong thơ Hàn Mạc
Tử, đăng trên tạp chí Đại học Sư phạm cách đây bảy tám năm gì đó. Nay
tôi đề cập vài hình tượng quen thuộc trong thơ Hàn Mạc Tử như Trăng, Máu, và
Hồn.
Trăng! Trăng! Trăng! Là Trăng, Trăng, Trăng!
Đó là điệp khúc độc điệu của một ngư phủ, theo
lời kể của Quách Tấn. Đó cũng là khúc nhạc lòng của nhà thơ. Trăng là một thứ
ánh sáng vừa nội tâm, vừa của ngoại giới; ở đây chúng tôi chỉ đề cập tới tương
quan giữa những hình ảnh thi ca và đức tin.
Ảnh hưởng của đêm trăng đối với bệnh phong đã
được ông Trần Thanh Mại triển khai đầy đủ. Còn nét quyến rũ muôn đời của ánh
trăng đối với thi nhân thì viết bao nhiêu pho sách cũng còn điều chưa nói.
Nhưng không thể nói thơ Hàn Mạc Tư mà không đề cập tới trăng, vì theo Trần
Thanh Mại thì hai phần ba của tập Đau Thương nói về trăng, nửa phần còn
lại nói về hồn[36].
Trăng, trước hết là ánh sáng tràn ngập cả vũ
trụ Hàn Mạc Tử
Gió ùa ánh sáng vô trong bãi
Trăng ngậm đầy sông chảy láng lai
Trăng là thứ ánh sáng êm dịu, mầu nhiệm phủ
ban đêm, tương phản với ánh sáng chói chang bỏng rát của mặt trời nhiệt
đới. Trăng tạo thi vị cho bóng tối tại những vùng nông nghiệp có sinh hoạt về
đêm, và như Xuân Diệu kể, thì có “trăng của tình duyên, trăng của xa xôi,
trăng của ảo huyền” và của “những đền đài mỏng thoáng”. Văn học của
chúng ta từ xưa đến nay, vẫn le lói những ánh trăng bất tận. Tôi không dài dòng
về địa hạt rộng rinh không bến này, chỉ muốn đề cập đến khía cạnh tượng
trưng của ánh trăng trong giáo lý.
Trăng trước hết là ánh sáng, một chủ đề rọi
suốt mặc khải Kinh Thánh, từ ngày thứ nhất của sáng thế, khi đức Chúa Trời phân
định ánh sáng và bóng tối, (“Gen” I, 3-4), cho đến chương cuối cùng của “Khải
Huyền”, khi con người, trong trời đất mới, hưởng được một ánh sáng miên viễn
(“Ap.” XXII,5). Như vậy thế giới di chuyển từ một vùng ánh sáng tương đối, ánh
sáng vật chất đối với bóng tối ban đêm, đến một ánh sáng tuyệt đối, ánh sáng
vĩnh cửu ngay trong chân thân Thiên Chúa, vì “Ngài là Sự Sống mà Sự Sống là
Ánh Sáng” (“Jean” I, 4). Và quá trình từ tương đối nọ đến tuyệt đối kia là
sự phấn đấu không ngừng giữa ánh sáng và bóng tối, tựa hồ như một cuộc phấn đấu
giữa nguồn sống và cõi chết. Ở Hàn Mạc Tử, ánh trăng là một thứ Ánh Sáng đang
tương tranh cùng Bóng Tối, trong một tư thế bi thảm, khác với mặt trời là chiến
thắng – dù là tạm thời – của Ánh Sáng
Ánh trăng mỏng quá không che nổi
Những vẻ xanh xao của mặt hồ
Những nét buồn buồn tơ liễu rủ
Những lời năn nỉ của hư vô
Mâu thuẫn tâm cảm của nhà thơ là vừa yêu bóng
đêm – vũ trụ Hàn Mạc Tử là một vũ trụ về đêm – vừa yêu ánh sáng, và vươn tới
một nguồn chói lọi
Ta ước ao đội mũ triền thiên
Và tắm gội trong nguồn ánh sáng
Sự thật mâu thuẫn đó nằm trong những hình ảnh
đa nghĩa của Kinh Thánh, vì bóng tối cũng là một sáng tạo của đức Chúa Trời.
(“Gen” I, 1-2) Từ điển Giáo lý Kinh Thánh khai triển điểm tế nhị này như sau:
“Bóng tối tượng trưng cho một kinh nghiệm kép: hoặc nó xác nhận không có ánh
sáng, hoặc bao hàm sự hiện hữu của ánh sáng. Con người muốn có ánh sáng tràn
đầy nhưng tìm đến bóng tối; Chúa là ánh sáng, là lửa bỏng, mà cũng là bóng mát;
Kinh Thánh lý theo sự đa nghĩa đó”[37].
Chúng tôi muốn đề nghị một ý nghĩa mới của ánh
trăng. Ở Hàn Mac Tử trăng là sự tương tranh đồng thời tương ứng giữa ánh sáng
và bóng tối, vừa tương khắc vừa tương sinh. Trăng là Bóng Tối hết là Bóng Tối
và Ánh Sáng chưa đủ là Ánh Sáng. Trong biện chứng Sáng – Tối đó, tâm hồn Hàn
Mạc Tử vẫn được xác định bằng Ánh Sáng, tức là “con người của Ánh Sáng” khác
với con của bóng tối hay “ con của Hiện Thế” (“Luc”, XVI, 8). Vậy nhà thơ là
Ánh Trăng, vì chàng là con của Ánh Sáng
Không gian đầy đặc toàn trăng cả
Tôi cũng trăng mà nàng cũng trăng
Vì, bên dưới bình diện siêu hình, về mặt đạo
đức, vẫn phải có sự phân biệt giữa bóng tối và ánh sáng (“II Co XI”,14)
Và tình ta sáng láng như trăng thanh
Thỉnh thoảng người đọc gặp một vài hình ảnh
của Kinh Thánh để tả trăng, như
Người trăng ăn vận toàn trăng cả
Gò má riêng thôi lại đỏ hường
(Trần Thanh Mại trích)
Vì liên tưởng ngay đến một câu của “ Thi
Thiên” (104, 2) Chúa bao phủ mình bằng “ánh sáng như cái áo ”. Nhưng có
lẽ chỉ tình cờ.
Trăng trong Hàn Mặc Tử không những là một thứ
ánh sáng ảo huyền, thường rạng rỡ. Nó có hình có trạng, như một vật cụ thể khả
xúc. Có khi một món hàng – ai mua trăng ta bán trăng cho – có khi là
châu báu, là hơi nước chảy, hay là một người đàn bà, mà tôi mường tượng phải
đẹp lắm trong nhan sắc làm bằng Ánh Sáng và Im Lặng
Tôi lần cho Trăng một tràng chuỗi
Trăng mới là Trăng của Rạng Ngời
(Trần Thanh Mại trích)
Và nói chung, trăng là hồn, là máu cuả bóng
đêm: tôi có nói đến ba chủ đề, kỳ thật chỉ là ba tiết diện của một thế giới:
Gió rít tầng cao trăng ngã ngửa
Vỡ tan thành vũng đọng vàng khô
Ta nằm trong vũng trăng đêm ấy
Sáng dậy điên cuồng mửa máu ra
(Trần Thanh Mại trích)
Hình ảnh máu hoặc nhỏ từng giọt, hoặc
ọc từng búng, hoặc đọng thành vũng, hoặc chảy thành sông,
có lẽ là dấu hiệu của bệnh lý. Ý nghĩa của máu là cuộc sống, vì máu mang đến
sinh lực đến cho mỗi tế bào, mà đồng thời cũng là cõi chết, khi đã khô, đã đọng
thành vũng máu đào trong ác lặn. Về hình ảnh máu vẫn thường gặp trong
thơ Baudelaire, Jean-Piere Richard viết: “Sự xuất huyết thiêng liêng ở chỗ
hội tụ cuộc sống hiển nhiên và cái chết tàn nhẫn”[38]. Máu là
cuộc sống đang chết, hay là cái chết tiềm ẩn trong cuộc sống. Máu là hồn của
thể xác mà cũng là xác của linh hồn.
Nói khác đi, máu là thơ:
Ta muốn hồn trào ra đầu ngọn bút
Mỗi lời thơ đều dính não cân ta
Bao nét chữ quay cuồng trong máu vọt
Cho mê man chết điếng cả làn da
Cứ để ta ngất ngư trong vũng huyết
Trải niềm đau trên mảnh giấy mong manh
Đừng nắm lại nguồn thơ ta đang siết
Cả lòng ai trong mớ chữ rung rinh
(Trần Thanh Mại trích)
Máu, cũng như thế, vừa là hành hạ, vừa là giải
thoát. Chúng ta vẫn thường gặp hình ảnh máu trong Kinh Thánh: máu là
nguyên lý sự sống, nhưng khác với linh hồn ở chỗ máu là thành phần hư nát của
cơ thể, còn linh hồn vẫn tồn tại đợi ngày Phục Sinh[39]. Từ máu Cứu
Thế trên Thánh Giá đến máu chiên con, hình ảnh của đau đớn, của hư nát lại là
hình ảnh của Hy Vọng; máu của chúng sinh tuy không vào được nước đức Chúa Trời
(I, XV, 50) vẫn là một môi giới, một phương tiện, một ánh sáng, một thẩm mĩ:
Và ai gánh máu đi trên tuyết
Mảnh áo da cừu ngắm nở nang
Trong bài “Biển hồn ta” bắt đầu bằng
câu Máu tim ta tuôn ra làm biển cả..., người đọc có cảm giác như máu và
hồn là một, hay máu là hồn của xác thịt còn thể phách là hồn của toàn cơ thể,
vì chính nhà thơ cũng phân biệt hồn ngoài và hồn trong:
Hồn hãy thoái ly ra ngoài tâm tưởng
Là hồn đừng nghĩ ngợi đến hồn trong
Cứ để mặc hồn ngoài bay lưởng vưởng
Ngao du cùng khắp cõi trí mênh mông
...Rồi hồn ngắm tử thi hồn tan rã
Bốc thành âm khí loãng nguyệt cầu xa
Đã là hồn rồi mà còn có tử thi nữa sao? Lại
còn ngắm được tử thi của mình nữa sao? ở đây, ngoài sự phân biệt “hồn” và xác
cố hữu trong tiềm thức người Việt Nam, ta còn phải ghi nhận thêm ảnh hưởng
phong thổ vùng từ Qui Nhơn đến Phan Thiết nơi Hàn Mặc Tử sống, vùng đất của
người Chàm. Nhà thơ thế nào cũng nghe chuyện ma Hời đêm đêm lìa khỏi xác đi
chơi hay ăn đêm, và đã nhớ đến những chuyện đó trong cơn mê sảng bệnh hoạn.
Nhưng trong Thánh Kinh, nhất là Cựu Ước, chúng ta còn bắt gặp dấu tích sự phân
biệt đó, bắt nguồn tư tưởng Do Thái giáo, Thân thể, tiếng hebreu (Do Thái) gọi
là basar, dịch ra la-tinh là caro, thành tiếng Pháp là chair, xác thịt. Xác
thịt, nếu không có sinh khí, chỉ là một “tử thi”. Hơi thở của Jahweh đã hà sinh
khí vào xác thịt, nhưng chỉ tạo nên một quân bình mong manh: “thần khí của
ta sẽ không lưu lại mãi trong loài người, vì loài người chỉ là thân xác”
(“Gen VI”, 3); vậy trong tư tưởng Do Thái giáo, chẳng những hồn và xác khác
biệt nhau, mà hồn là thần khí mà Chúa Trời ký thác vào thân xác con người đó
thôi, chứ không hẳn của con người. Do đó, khi chết, Chúa Jésus đã nói “Thưa
Cha, trong tay Cha con trả lại linh hồn”, (“Luc XXIII”, 46) và Huy Cận đã
nhắc lại trong câu “Lạy Thượng Đế tôi cúi đầu trả lại, Linh hồn tôi...” Linh
hồn đó, là cái thần khí của Jahweh nay trở về với Jahweh, chứ không phải là cái
hồn lìa khỏi xác của Hàn Mạc Tử. Hồn này lại là một chuyện khác, một
biểu hiện của sự sống; hồn này có thể chết, có thể hư nát như thịt xương (“Ps”,
78, 50) lang thang xuống âm ty sống đời khổ ải, cho đến ngày Chúa trời cho lịnh
hồi sinh những đống xương tản mác[40]. Trong những lời truyền dạy
của Thánh Tự, Hàn Mạc Tử đã nhớ những chi tiết phù hợp với tâm hồn hay bệnh
trạng mình nhất, nghĩa là sự phân biệt giữa hồn và xác, trong khi giáo lý Thiên
Chúa về vấn đề này, phức tạp hơn nhiều.
Vì nhà thơ, trong cơn hành hạ của bệnh lý dĩ
nhiên là tìm cách giải thoát, dù chỉ bằng mê sảng
Thịt da tôi sượng sần và tê điếng
Tôi đau vì rùng rợn đến vô biên
Tôi dìm hồn xuống một vũng trăng êm
Cho trăng ngập dần lên tới ngực (tr. 53)
Ở đây, ta bắt gặp hình tượng Trăng, Hồn và Máu
dồn dập lại trong tương quan chặt chẽ: mà thơ khạc hồn ra khỏi miệng,
hay điên cuồng mửa máu ra, hay ngậm cả miệng ta trăng là trăng,
cả ba hình ảnh đều oà vỡ từ thân xác, và từ thân xác Đau Thương.
Hàn Mạc Tử đã dùng thơ để sống trọn vẹn tín lý
của mình. Chàng đã thấy hồn mình trong máu vọt, và hồn mình chính là máu đang
tuôn trào lênh láng; chàng đã ghi lại những cảm giác rùng rợn đó, bằng những
hình ảnh ta đã gặp trong Cựu Ước: hồn trong máu (“Lv XVII”, 10) hồn là
máu (“Lv XVII”, 14), một thứ máu luôn luôn vươn đến ánh sáng, như hình ảnh đức
Chúa Trời chói chan trong tấm áo dệt bằng ánh sáng trong “Thi Thiên” (104, 2)
và đẫm máu chiên con trong “Khải Huyền” (XIX, 13). Máu chiên con trở thành ánh
Sáng, và chiên con là ngọn đèn bất diệt của Jérusalem mới. Do đó, tôi nói Hồn,
Máu và Trăng chỉ là ba màu sắc chiết quang của một ánh Sáng Duy Nhất. Người
đi trong Mơ Ước. Trong mơ ước, Hàn Mặc Tử đã gọi Ánh Sáng Khải Huyền đó là Xuân
Như ý.
Cho mau lên! dồn ánh nguyệt vào đây...
Đưa ra, nào là nhạc thơm, hương gấm, mộng ngọc
và hoa trinh bạch, đàn ly tao, tranh tuyệt phẩm...
Vẫn là chưa bưa, chưa đã, chưa nguôi được chí
muôn sao!...
Phải mời cho được Xuân Thiên ra đời (tr. 65)
Như vậy Xuân Thiên ở đây phải là một
mùa xuân khác. Không còn là mùa xuân phảng phất ngày xưa trong làn nắng ửng
khói mơ tan. Tuy là trời hạo nhiên trong thế giới đợi chờ của Gái
Quê: màu nhiệm của đấng Vô thỉ Vô chung, nhưng là một thế giới hư nát, sẽ
vỡ lở, sẽ chấm dứt. Vì công trình châu báu của Thiên Chúa, sau khi con
người tự dấn thân vào tội lỗi, cũng đồng thời là sự phẫn nộ của Thiên Chúa; mặt
đất, nguyên là Quê Hương của loài người đã trở thành cõi Lưu Đày, không còn là
vườn Địa Đàng long lanh nhũ hương và bích ngọc, cũng không phải là Đất Hứa óng
ánh sữa thơm và mật ngọt; trên mặt đất, lúa tốt còn mọc lẫn với cỏ hoang, trái
lành ửng chín trong gai bụi, và lương thực loài người còn trộn lẫn cát bụi với
mồ hôi.
Và con người không những thịt da sượng sần
và tê điếng mà còn nứt nẻ như muốn tan rã ra cùng vũ trụ, làm cho mê lẫn
máu và hồn ta là ta hay không phải ta. Thế giới hiện tại, tuy vẫn có thanh
sắc, nhũ hương, vẫn mang sẵn mục nát trong mầm sống. Và mầm sống đó, có
sung mãn đến đâu, thì nhà thơ vẫn lòng thương chưa đã mến chưa bưa,
nên phải mời cho được Xuân Thiên.
Chúng ta chưa quên được Người đang say sưa
đi trong Mơ Ước đã gặp ở bài tựa Đau Thương. Vậy Xuân Thiên
đây là niềm mơ ước ở sự tồn sinh sau cõi chết, sẽ được phục hồi trong cảnh trời
mới đất mới, rạng ngời trong danh Cha cả sáng. Những thi phẩm cuối cùng
của Hàn Mạc Tử như Xuân Như ý gom góp xong đầu năm 1939, Thượng Thanh
Khí đầu năm 1940, gồm hai vở kịch thơ Duyên Kỳ Ngộ và Quần Tiên Hội
viết dở dang, đều nói lên niềm Mơ Ước đó. Trong bài này, tôi tạm xếp ba tác
phẩm trên cùng những bài cuối tập Đau Thương vào chủ đề Xuân Như ý, cho
gọn, và như một giai đoạn trong thi trình Hàn Mặc Tử.
Mùa Xuân Thượng Thanh, đó ra sao? Về chủ đề mơ
ước trong Thánh Kinh, một chuyên gia về giáo lý Thiên Chúa nhận xét: “Cuộc
sống vĩnh viễn được xác nhận rõ rệt bao nhiêu, thì những đường nét của nó lại
mờ nhạt bấy nhiêu. Không những mờ nhạt, mà đôi khi còn thiếu sót. Sự tồn sinh
không được mô tả, dù dưới những hình ảnh khải huyền”. [41]
Lẫn trong mơ hồ đó, nhà thơ tha hồ mà tưởng
tượng quang cảnh trời đất mới. Nếu Xuân Như Ý mang nhiều hình ảnh dựa
theo tín lý Thiên Chúa giá, thì Cẩm Châu Duyên lại gần với huyền tượng
của dân gian phảng phất không khí thần tiên của Đạo giáo - một thứ Đạo giáo
bình dân, không ăn thua gì đến tư duy “đạo khả đạo” của Lão Tử. Vì vậy Hoài
Thanh cho rằng Hàn Mạc Tử “chốc chốc lạc vào thế giới đồng bóng”. Thật
ra trong cái hoa hoè của dự tưởng, nội hàm nòng cốt của Xuân Như ý vẫn
là một tín điều Thiên Chúa giáo.
Trước hết đó là một mùa Xuân. Nghĩa là một thế
giới mới, một khung cảnh tái tạo, như cảnh thành Jérusalem mới được thánh Jean
rao truyền ở chương cuối Phúc Âm, Trời mới đất mới được dựng lên trên
cảnh trộn trạo, tán loạn của ngày tận thế
Cả vũ trụ tàn theo ngày Phán xét
Là khủng khiếp cả Trời Đất tiêu diệt (tr.60)
Mùa Xuân đó ở xa, ở thật xa nếu nhìn từ thế
giới hồn nhiên của Gái Quê
Cửu Trùng là chốn xa xôi ấy
Chim én làm sao bay đến nơi (tr. 37)
Nhưng kinh nghiệm Đau Thương, kinh
nghiệm của xác tín trong khổ não, đã chắp lên thân xác nứt nẻ của nhà thơ đôi
cánh phượng hoàng. Bằng những bất hạnh, Hàn Mạc Tử đã đến gần với Chúa và gần
với mùa xuân Mơ Ước hơn là cánh én bơ vơ:
Phượng trì!Phượng trì!Phượng trì! Phượng trì!
Thơ tôi bay suốt một đời chưa thấu
Hồn tôi bay đến bây giờ mới đậu
Trên triều thiên ngời chói vạn hào quang (tr. 37)
Trong bài “Thánh nữ Đồng Trinh Maria”
này, với nguồn rung cảm mãnh liệt của đức tín, nhà thơ đã sống cả thế giới hiện
tại lẫn mùa xuân dự tưởng, đã nói đến cơn lậm luỵ đã trải qua dưới
thế như là một quá khứ. Và trong đức tin này, nhà thơ đã vẽ cho ta địa hình
của Đất Mới, trong bài tựa tập Xuân Như Ý:
Vì chưng muôn xuân là lương thực ngon ngọt, mĩ
vì, ánh xuân là nguồn tơ tưởng thơm tho tinh khiết, khí xuân là mạch trường
sinh bất tử, tình xuân là cung cầm nguyệt mê ly, tuổi xuân là Ngọc như ý, tên
xuân là dạ lan hương.
Và xuân là phong vị thái hoà của năm muôn năm,
trời muôn trời, chân lưu trên thượng tầng không khí, bàng bạc cả giải Hà Sa,
chen lẫn vô tận hồn tạo vật...
Loài người hãy tận hưởng một hơi cho đã ngán
và cao rao danh Cha cả sáng...(tr. 66)
Chúng ta thử khai triển vài nét chính của Xuân
Như Ý. Chúng ta đã thấy đó là mùa xuân hồi sinh, sau khi “Trời thứ nhất,
đất thứ nhất tan biến”. (“Ap. XXI”, 2). Như đặc biệt mùa xuân này nảy lộc
từ mùa đông, nhưng sẽ không bao giờ chuyển sang mùa hạ Mai nầy thiên hạ mới
tinh khôi... Và sẽ còn tinh khôi mãi mãi, vì đã đi vào cõi tứ thời xuân
non nước. Trong Cẩm Châu Duyên nhà thơ gọi là Xuân vô cùng đến
ngàn năm ơn phước và mô tả như một tia sáng triền miên:
Liên hồ đây bốn mùa xuân cả bốn
Ngát hương đưa trong gió sớm chơi vơi
Làm nước mát và chưa bao giờ gợn
Vết phong trần đưa lạ ở xa khơi
(Trần Thanh Mại trích, tr. 147)
Đoạn cuối “Khải Huyền” truyền giảng rõ ràng.
Đất Mới đây, là châu thân Thiên Chúa; mùa xuân của Hàn Mạc Tử (trường sinh
bất tử năm của muôn năm, vì ở “Khải Huyền”, Chúa đã kết luận: “Ta làm
mới mọi vật. Ta là Alpha và Oméga, là nguyên lý và cực chung”. (“Ap. XXI”,
5-6)
Xuân Như Ý tiếp đến là một vũ trụ thơm tho và tinh
khiết vì là càn khôn mới dựng lên. ở đây, nhà thơ như rợn ngợp trong
trinh nguyên của Đất Mới, mà tượng trưng là con chiên con vô tật và vô tội, làm
ngọn đèn trinh bạch rọi sáng cả hoàng thành. Thi sĩ vội nguyện cầu gội rửa:
Tôi van lơn thầm gọi Chúa Giê Su
Ban ơn xuống cho mùa Xuân hôn phối
Xin tha thứ những câu thơ tội lỗi
Của bàn tay thi sĩ kẻ lên trăng (tr, 74)
Và để ngợi ca vinh hiển của Nguồn thơm,
nhà thơ đã cao ngâm giọng long lanh, thanh thoát:
Ta cho ra một dòng thơ rất mát
Mới tinh khôi và thanh sạch bằng hương (tr. 70)
Theo Hoài Thanh - người may mắn hơn chúng ta,
được đọc toàn bộ thi phẩm - thì Cẩm Châu Duyên, thi phẩm cuối cùng, là “trong
trẻo hơn cả” [42[. Âu cũng là chuyện lạ. Gái Quê, từ ban
sơ, đã là một dòng suối rừng vẩn đục, rồi chảy qua một cuộc đời khổ ải, chuyên
chở không biết bao nhiêu trần luỵ, ấy mà dần dà lại gạn lọc hết phù trầm, để đổ
ra đại dương bằng một giải Cẩm Châu trong vắt. Thật là một đặc điểm trong thẩm
mĩ thi ca.
Đất Mới còn là một xứ rực rỡ, cao sang, vì xuân
mang tên một loài Ngọc:
Ánh hào quang chan chói ngắt lưu ly
Ôi! Cao sang khôn ví, trọng ai bì
Trên nước cả có vô vàn châu báu (tr. 67)
Những hình ảnh tráng lệ như gấm, ngọc,
trân châu, thất bảo, nhũ hương, mộc dược đều muốn
gợi lên vinh hiển, như khi sứ đồ tả thành Jérusalem mới trong “Khải Huyền”: “Thành
ấy chói sáng như một viên bửu thạch, như bích ngọc rạng ngời... Tường
thì xây bằng bích ngọc, thành thì xây bằng vàng ròng, tợ như thuỷ tinh trong
vắt. Mười hai cửa thì làm bằng mười hai hột châu” (“Ap. XXI”, 11, 18 và
21). Dựa theo “Khải Huyền”, tôi cho rằng những đền đài dự tưởng trong Hàn Mạc
Tử là một phóng thể của đức tín Thiên Chúa, vì cảnh Bồng Lai của Á Đông, cảnh
thần tiên của Đạo gia không có cái huy hoàng rực rỡ đó.
Cuối cùng Xuân Như Ý là một thái hoà
tuyệt đối, trong không gian và thời gian, thái hoà của năm muôn năm,
trời muôn trời. ở đó, trời thì bình an như nguyệt bạch, còn người
thì hoàn hảo, no nê nhờ trái cây bằng ngọc, vỏ bằng gấm. Còn nói
chung:
Thiên hạ thái bình và trời tuôn ơn phước
Như triều thiên vờn lượn khắp không gian (tr. 71)
Ở đây, sầu đau chìm trong quên lãng. Đất Mới
không còn cảnh “chết chóc, than khóc, kêu ca hay đau đớn nữa” (“Ap. XXI”, 4) vì
những lậm luỵ dưới thế đã qua. Ở đây tất cả đều là ánh sáng. Và ánh sáng
là linh thị cuối cùng bao trùm trọn vẹn thi trình Xuân Như Ý, đồng thời
rọi lại toàn bộ tác phẩm Hàn Mạc Tử như một Thánh thể kết tinh triền
miên vươn tới ánh Sáng, vươn tới ánh hào quang chan chói ngất lưu ly.
Hay trở về Ánh Sáng. ở đây, chúng ta đi sâu vào ngõ ngách cuối cùng trong đức
tin Hàn Mạc Tử:
Ta ước ao đầu đội mũ triều thiên
Và tắm gội ở trong nguồn ánh sáng
Tôi sẽ dừng lại ở đây, dừng lại ở hình ảnh Nguồn
Ánh Sáng, vừa là một vươn tới, vừa là một trở về. Mùa Xuân Như Ý đẹp
trước hết vì là Xuân thứ đến vì nó là Như Ý, nó đưa con người về
với Chúa, về với Nguồn. Vậy Nguồn Ánh Sáng ở đây là Alpha và là
Oméga, vừa là cội rễ vừa là cứu cánh con người. Và cấu trúc thơ Hàn Mặc Tử do
đó gói ghém cả mặc khải Thánh Tự lẫn lịch trình Cứu Rỗi. Tôi có cảm giác đã làm
xong một bài luận mạch lạc. Bây giờ là kết.
Tham vọng bài này là đề nghị một lối nhìn nhất
quán vào tác phẩm Hàn Mặc Tử trong giới hạn những bài thơ còn lưu truyền, nghĩa
là trên một sự nghiệp bị thời gian cắn xén. Khai quật cấu trúc nội tại của sự
nghiệp đó, chúng tôi lại còn mong ước rọi sáng những bài, những câu thơ mà các
nhà phê bình xưa nay, từ Trần Thanh Mại đến Vũ Ngọc Phan, cả thi sĩ Quách Tấn
đều cho là khúc mắc. Theo chúng tôi, hiểu tất cả các câu thơ, các bài thơ trong
một tập thơ, chưa hẳn đã là hiểu toàn bộ tập thơ, ít nhất cũng đối với người
viết phê bình. Chúng ta còn phải hiểu liên hệ nội tại trong mỗi tập thơ để nắm
vững cơ cấu sáng tạo của thi sĩ - ít ra cũng trong chủ quan người đọc.
Liên hệ nội tại đó, tôi đặt trên đức tín của
Hàn Mạc Tử. Tôi cũng có thể đề nghị một nền tảng khác; tôi chọn chủ đề này với
một dụng ý: giải thích những nhận xét cố hữu của các nhà phê bình tiền bối vẫn
cho Hàn Mạc Tử là nhà thơ Thiên Chúa giáo, mà không nói rõ, nói đầy đủ, tại
sao. Các vị đó thường trích dẫn những bài thơ hay câu thơ có âm vang tôn giáo,
có hình thức tín ngưỡng như Maria linh hồn tôi... rồi kết luận; theo
tôi, thì chưa đủ, vì một người không có đức tin cũng có thể kể rất nhiều tên
Thánh, làm thơ ca tụng đấng Tối Linh, như ngày xưa các cụ Nguyễn Hữu Tiến hay
Tản Đà nhắc đến Thượng Đế trong Quả Dưa Đỏ hay Giấc Mộng Con.
Theo tôi, chúng ta chỉ có thể nói đến tín lý trong một tác phẩm khi toàn bộ tác
phẩm đó tiềm ẩn đức tin trong cơ cấu. Nói khác đi, một người Thiên Chúa giáo
chưa hẳn là kẻ đọc kinh vanh vách, mà là người đem trọn cuộc đời mình đáp lại
lời gọi của ơn Trên, và một thi sĩ Thiên Chúa giáo không hẳn là kẻ tự xưng là thi
sĩ của đạo quân Thánh giá (tr. 71) như Hàn Mạc Tử đã tự nhận, mà là kẻ đem
cả sự nghiệp thi ca của mình âm vọng lại tiếng gọi của Thượng Đế. Và dĩ nhiên
không phải là kẻ “dùng thơ để truyển bá tôn giáo của mình” như Quách Tấn
nhận định ở trang 118 số Văn thượng dẫn. Do đó mà tôi cố gắng chứng minh
toàn tập thi phẩm Hàn Mạc Tử là một tiếng vọng của Thánh Tự.
Dĩ nhiên, trong tác phẩm Hàn Mạc Tử còn nhiều
vết tích của một nhân bản Việt Nam. Tín ngưỡng Ki Tô giáo đã nảy mầm trên một
nhân bản phiếm thần và đa giáo, thì nguồn thơ Hàn Mạc Tử không khỏi làm một
lăng kính hội tụ rồi phát huy nhiều nguồn sáng khác nhau, và hỗ tương lẫn nhau,
như Giáo hoàng Paul VI đã tuyên bố trên đài phát thanh Véritas chủ nhật
29-11-1970 vừa qua, nhân chuyến công du sang Á Đông: “Chúng ta đang ở một
vùng đất mà những tư trào cổ kính của Đông phương và những trào lưu mới
mẻ hơn Tây phương đã kết hợp lại và làm giàu cho nhau”.
Và bạn đọc sẽ hoan hỉ nếu Quách Tấn thủ lời
hứa “ nói về đạo Từ bi trong thơ Tử” vì sẽ hiểu thêm một khía cạnh của
thi phẩm, qua kiến thức uyên bác của tiên sinh về phương diện Phật lý cũng như
tác phẩm Hàn Mạc Tử.
Cuối cùng, viết bài này tôi cũng có hai hậu ý
riêng tư. Trước là để giải một lời hứa với anh Trần Phong Giao từ hai năm nay;
một đề tài bao quát và hệ trọng như vầy đòi hỏi một suy nghĩ dài hạn, khiến anh
Trần Phong Giao cứ trách tôi là “ thề cá trê chui ống”.
Thứ đến là hồi đầu năm nay, tôi có viết một
bài điểm sách, về vở kịch Ngộ Nhận của Vũ Khắc Khoan. Bài đó đã gây nhiều
hiểu lầm, nhất là trong những người thân của tôi, cho là tôi bất kính đối với
tín ngưỡng; nếu có hiểu lầm đó, dĩ nhiên lỗi về phần tôi, viết không khéo, nói
không trọn, lời không thanh, ý không minh.
Vậy bài này viết vào mùa Giáng sinh, sẽ là một
bổ chính cho bài trước, và cũng là lòng thành khẩn, của riêng tôi, nhân mùa Hy
Vọng, là cánh hoa huệ từ một lưu vực xa xôi gửi về cho Quê hương Yêu dấu.
Val de Loire, 12-1970, bổ chính, nhân kỷ
niệm 100 năm Hàn Mạc Tử, 22.1912-22.9.2012
Từ năm 1970, đã đăng trên báo Văn, Sài Gòn, số
179, ngaỳ 01-6- 1971.
[1] Vũ Ngọc Phan, Nhà văn hiện đại, III,
1942 – ấn bản 1951, n.x.b Vĩnh Thịnh, Hà Nội, tr. 325.
Tái bản nhiều lần.
[2] Hoài Thanh và Hoài Chân, Thi Nhân ViệtNam.
1942, Thiều Quang tái bản, Sài Gòn. 1967, tr. 204.
Tái bản nhiều lần.
[3] Văn, số đặc biệt Hàn Mạc Tử, 73-74, ngày
7-1-1967, tr. 139.
[4] Trần Thanh Mại, Hàn Mạc Tử, 1941,Tân
Việt tái bản, Sài Gòn, 1957.
[5] Vũ Ngọc Phan, sđd, tr. 63-83.
[6] Quách Tấn, Văn, sđd, tr. 141-148.
[7] Thơ Hàn Mạc Tử đều trích từ ấn bản Tân Việt,
Sài Gòn,1959 – ấn bản này không đánh số trang, tôi dựa theo mục lục mà ghi số
trang, để bạn đọc dễ kiểm chứng.
[8] Huỳnh Phan Anh, Văn số 73-74 đã dẫn
[9] Vũ Ngọc Phan, sđd, tr. 332
[10] Hoài Thanh và Hoài Chân, sđd, tr. 212
[11] Hoài Thanh và Hoài Chân, sđd, tr. 211
[12] Văn, số đặc biệt HMT, đã dẫn, tr. 120
[13] Jacques Dournes, Dieu Aime les Paiens,
Aubier, 1963, tr. 149
[14] Văn, sđd, tr. 47
[15] Vũ Ngọc Phan, sđd, tr. 326
[16] J. E. KERNS. S. J, Les Chrétiens, Le Mariage
et la Sexualité. Edit du Cerf, 1966, Paris, tr. 93
[17] J. E. KERNS. S. J, sđd, tr. 94
[18] Quách Tấn, Văn, sđd, tr. 81
[19] Trần Thanh Mại, sđd, tr. 73
[20] Thư Mộng Cầm, do Trần Thanh Mại trích dẫn,
sđd, tr. 94
[21] Trần Thanh Mại, sđd, tr. 95
[22] Quách Tấn, Văn, sđd, tr. 88
[23] Trần Thanh Mại, sđd, tr. 193
[24] Trần Thanh Mại, sđd, tr. 121
[25] Vũ Ngọc Phan, sđd, tr. 330
[26 ]Hoài Thanh và Hoài Chân, sđd, tr. 212
[27] Trần Thanh Mại, sđd, tr. 120
[28] Nguyễn Công Hoan, tạp chí Văn Nghệ Hà
Nội số 67, Tháng 12-1962 và 68 tháng 1-1963 về Tú Xương. Tôi có đề cập tới
trong Báo Văn số 163 ngày 1-10-1970. Sau này tôi được biết báo Vì Chúa,
xuất bản ở Huế, do Linh Mục Nguyễn văn Thích chủ trương cùng với nhóm Bùi Tuân,
bạn thân với HMT .
[29] Quách Tấn, Văn, sđd, tr. 120
[30] Trần Thanh Mại trích, sđd, tr. 120
[31] Hoài Thanh và Hoài Chân, sđd, tr. 211
[32] Charles Journet, Le Mal, essai
théologique, tủ sách giáo lý, Desclée de Brouwer, Bruges, tr. 271
[33] Trần Thanh Mại, sđd, tr. 130
[34] Quách Tấn, Văn, sđd, tr. 75
[35] Trần Thanh Mại, sđd, tr. 61
[36] Vocabulaire de Théologie Biblique, Edit, du Cerf, Paris 1962, tr. 714
[37] Jean Pierre Richard, Poésie et Profondeur,
Seuil, Paris 1955
[38] P. Dhorme, Revue Biblique. Số 4 tháng
10 – 1920 tr. 473 – 474. Loại bài “1’Emploi métaphorique dans la Bible”, chuyên
về hình ảnh của thân xác, rất cần cho việc tìm hiểu thơ H.M.T.
[39] Vocabulaire de Théologie Biblique, sđd, tr. 31
[40] Jacques Quillet, tủ sách giáo lý, Thèmes
Bibliques, Aubier, 1950, tr. 175
[41] Hoài Thanh và Hoài Chân, sđd, tr. 211
[42] Le Monde, ngày 1 tháng 12-1970, tr. 8, cột 1