Chủ Nhật, 10 tháng 4, 2011

TỪ THỦ PHỦ DINH TRẤN BIÊN ĐẾN THÀNH AN THỔ



Di tích thành An Thổ

Phan Thanh Bình
Tạp chí Xưa và Nay, số 376, tháng 3/2011



Đại nam nhất thống chí cũng đã chép rằng ''đời chúa Nguyễn Phước Nguyên (chúa Sãi) thứ 16, Văn Phong phản nghịch chúa sai võ tướng Nguyễn Phúc Vinh đánh dẹp rồi lập dinh Trấn Biên, sau gọi là dinh Phú Yên, đặt “quan trấn thủ''. Cả xứ Đàng Trong (nam sông Gianh trở vào) của chúa Nguyễn lúc ấy có 7 dinh (đơn vị hành chính cấp tỉnh). Dinh Trấn Biên xưa đâu? Học giả Phạm Đình Khiêm, tác giả bài khảo cứu Đi tìm địa điểm đi tích hai thành cổ Quảng Nam và Phú Yên (Việt Nam khảo cổ tập san, số l, Sài Gòn, 1960,tr. 71-104) đã đày công điền dã phát hiện di tích cũ.

“Di tích cổ hơn, gọi là Thành Cũ ở Phú Hội, xã An Ninh, quận Tuy An (l959), xa chỗ phủ cũ nói trên 2 cây số về phía đông - nam, bên kia con sông Cái, chính chỗ có di tích ấy hiện nay là ấp Thành Cũ. Từ Ngân Sơn, trên đường Quốc lộ l (cây số 1.301) muốn đến ấp Thành Cũ, thôn Hội Phú, thì phải đi theo đê sông Cái, trực chỉ hướng đông nam, qua trước nhà thờ Mằng Lăng, đường xa độ 5 cây số. Di tích này ngoài cái tên Thành Cũ mà nhân dân sở tại dùng để chỉ cái xóm ở chỗ đó, chỉ còn lại vài ba tảng gạch nhỏ, bó hồ kiên cố, nằm ở vệ đường đê sông Cái, sát bờ sông, hoặc ngay trong lòng sông, ở gần bờ, lục nước cạn mới thấy. Lại khi nước cạn, xuốnglòng sông mà ngó lên bờ đê, thấy một quãng có nhiều mảnh vụn (gạch, đá, thủy tinh) ăn khá sâu trong đất, coi như nền móng của một kiến trúc gì xưa kia. Bô lão trong làng nhìn nhận đó là di tích của một ngôi thành cổ. Vẫn theo lời các cụ, thành này bị bỏ là vì nước sông Cái càng ngày càng chảy xiết đến bên thành. Tiên đoán thành sẽ bị lở, nên các quan mới lo dời đi nơi khác, lập thành mới ở bên Long Uyên - An Thổ''.

             Vợ của quan trấn Nguyễn Phúc Vinh là công chúa Ngọc Liên theo đạo Thiên Chúa giáo với tên Thánh là Maria Mađalêna, có nhà nguyện riêng trong dinh Trấn Biên. Nhà nguyện này từng long trọng đón tiếp giáo sĩ Đắc Lộ (Alexandre de Rhodes), tên việt là Cố Tràng - một trong những người có công lớn trong việc sáng tạo và hoàn thiện chữ Quốc ngữ đã đến Phú Yên truyền giáo từ 164l – 1653 và là thầy của vị Thánh Anrê Phú Yên (vị thánh tử vì đạo đầu tiên của Giáo hội Việt Nam).
Năm 1653, Đắc Lộ cho in tại Roma bức địa đồ về vùng đất này với địa danh ''Dinh Phoan''. Nhiều địa danh được Đắc Lộ nhắc đến trong bức bản đồ. ''Dinh Phoan'' ghi dấu ấn khá sâu tro nghệ thống địa danh của vùng đất này. Phòng tuyền thống của nhà thờ Mằng Lăng còn lưu giữ trang trọng nhiều tư liệu xưa như sa bàn đắp nổi cả vùng dinh Trấn Biên xưa cũng như nhiều hiện vật thu nhặt được của dinh Trấn Biên chìm dưới lòng sông Cái như mảnh tường thành, chén bát sành nâu, chén sứ men lam...
Dinh Trấn Biên (sau đổi là dinh Phú Yên) tồn tại từ năm 1629 đến 1832. Đó là năm Minh Mệnh thứ l3, nhà vua chia lại các đơn vị hành chính trong cả nước. Phú Yên là đơn vị hành chính cấp tỉnh. Tỉnh đường dời về thôn Long Uyên. Đến thời Duy Tân, thôn Long Uyên tách thành 2 thôn là Long Uyên và An Thổ, tỉnh đường đóng thôn An Thổ nên vẫn gọi là thành An Thổ. Địa danh này nay thuộc xã An Dân, huyện Tuy An.
Theo Đại Nam nhất thống chí, thành An Thổ được xây dựng theo kiến trúc Vauban (tên một kỹ sư trong quân đội Pháp). Thành An Thổ hình vuông mỗi cạnh khoảng 300m, cao trên 4m (sách ghi 66 trượng, 6 thước). Tường thành được đắp bằng đất đá vôi. Đường trên mặt thành rộng 3m, tiện cho việc cơ động phòng thủ. Thành có 4 cửa: tiền, hậu, tả, hữu. Phía ngoài mỗi cửa có miếu thờ thổ thần. Gần cửa tả có một bầu nước gọi là bầu Cửa Tả ăn thông ra sông Cái và cửa biển Tiên Châu.
Cổng thành xây theo kiểu ''cuốn tổ tò vò” có 3 tầng. Tầng trên cùng là đài quan sát, tầng giữa thông với mặt thành làm đường di chuyển, tầng dưới rộng hơn 10m làm đường ra vào. Xung quanh thành cách khoảng 40m có chiến hào rất sâu và rộng từ l5-20m, trên bờ thành rào tre và phòng thủ bằng chông. Ngoài hệ thống phòng thủ gần, thành An Thổ còn có hệ thống phòng thủ từ xa hỗ trợ như A Mang, Tiên Châu và Mằng Lăng. Về mặt quân sự thành An Thổ khá kiên cố.

Nhà thờ Mằng Lăng, quê hương Á Thánh Anrê Phú Yên

Là tỉnh đường nên trường học đóng ở thành An Thổ và riêng An Thổ có đến 7 cử nhân (Nguyễn Văn Thành, Đặng Trác Văn, Trần Khắc Côn, Nguyễn Hoàng Hà, Lê Hoàng Lưu, Bùi Canh, Nguyễn Bá Côn) và 5 tú tài (Trần Đình Kháng, Đặng Uyên, Lê Hoàng, Đinh Châu, Nguyễn Học). Đây là một thành quả rất đáng tự hào.
Cần nói thêm rằng, từ 1807 đến 1918 (khoa thi đầu tiên và khoa thi cuối cùng của nhà Nguyễn), triều đình Huế chỉ tổ chức 89 khoa thi Hội, chọn được 558 tiến sĩ và47 khoa thi Hương chọn được 6.165 người thi đỗ cử nhân, tú tài.
Gần thành An Thổ có đền thờ Lê Thánh Tông ở Long Uyên để ghi nhớ công lao đức vua. Năm 188l, Bố chánh Phú Yên là Đinh Nho Quang có làm 2 câu đối cúng tế rất nổi tiếng. Gần đấy là văn miếu Hội Tín - Ngân Sơn thờ những vị đỗ đạt, thành danh ở địa phương. Thành An Thổ gắn liền với chiến công bất tử của phong trào Cần Vương tại Phú Yên do tú tài Lê Thành Phương lãnh đạo. Đầu năm 1886, Lê Thành Phương giao trách nhiệm cho Lê Thành Bính và Bùi Giảng chỉ huy 15.000 quân bao vây tiến công thành An Thổ, làm chủ tỉnh đường một năm. Hoảng sợ trước sự lớn mạnh của phong trào Cần Vương ở Nam Trung bộ do Lê Thành Phương lãnh đạo. Ngày 4/2/1887, thực dân Pháp điều động 1.500 quân do tên đại Việt gian Trần Bá Lộc chỉ huy từ Nam kỳ kéo ra, lợi dụng súng tốt, pháo lớn để chiếm thành. Cuộc chiến giữ thành đầy sinh tử và bi tráng. Trước vũ khí áp đảo của giặc, nghĩa quân phải rút lúi để bảo toàn lực lương. Giặc đã dùng gian kế bắt sống và xử chém Lê Thành Phương ở bến đò Cây Dừa ngày 20/2/ 1887, để lại một bài thơ tuyệt mệnh của ông và hào khí ''ninh thọ tử, bất ninh thọ nhục'' (thà chết chứ không chịu nhục) tạc vào lịch sử.
Sau khi đàn áp phong trào Cần Vương, thực dân Pháp đặt tòa công sứ ở Tân Thạnh (Vũng Lấm - Sông Cầu), năm 1888 buộc tỉnh lỵ Phú Yên phải dời về đó. Một năm sau (l889), tòa Công sứ Pháp chuyển ra Sông Cầu, tỉnh ly Phú Yên chuyển về lại thành An Thổ. Đến năm 1899, thì tỉnh ly Phú Yên mới dời ra Sông Cầu gần tòa Công sứ của Pháp….

Thành An Thổ nhìn từ bên ngoài