Thứ Hai, 28 tháng 2, 2011

TỪ CẢM HỨNG ĐẾN THỰC HIỆN


Lm. Trăng Thập Tự 


          1. CẢM HỨNG HAY TỨ THƠ
          Cảm hứng hay tứ thơ là những hình ảnh mới lạ, có sức chuyển tải nhiều ý tưởng và tâm tình. Nó chợt đến như một câu thơ đã thành toàn, hoặc như một cụm từ, hoặc chỉ mới là một hình ảnh còn mơ hồ.

Ví dụ 1:

Bài Ngậm Ngùi của Huy Cận đầy hình ảnh, gần như mỗi câu là một hình ảnh:
Một trong những hình ảnh của bài thơ đã xuất hiện đầu tiên, kéo theo những hình ảnh khác đủ để chuyển tải ý và tình của tác giả, và tất cả dệt thành bài thơ. Hình ảnh đầu tiên có thể sẽ nằm ở mở đầu, ở giữa hay ở đoạn kết của bài thơ. Chỉ tác giả mới biết hình ảnh đầu tiên đem lại sức sáng tạo làm nên bài thơ là hình ảnh nào.

Ví dụ 2, 3, 4 - nơi Hàn Mạc Tử:

Trời hỡi bao giờ tôi chết đi…
Như song lộc triều nguyên ơn phước cả…
Nàng hỡi nàng, muôn năm sầu thảm…


Ví dụ 5: Trăng

Vầng trăng ai xẻ làm đôi,
Nửa in gối chiếc nửa soi dăm trường…. (Kiều)

Vầng trăng tấm bánh bẻ ra…
Trăng bẻ làm đôi tấm bánh đời… (TTT)

          Vừa có cảm hứng mà đã viết ngay đôi khi cũng làm nên kiệt tác, nhưng thường thì vừa cảm hứng đã viết ngay sẽ rất nghèo và xoàng. Cần phải có thinh lặng. Thinh lặng giúp nảy nở các hình ảnh phụ hoạ cho hình ảnh ban đầu.

          Cảm hứng ban đầu thường cũng giúp ta biết nên dùng thể thơ nào. Nếu chưa rõ, chính sự thinh lặng sẽ chỉ cho ta.

           Bài thơ cũng như bài văn thường bị hỏng vì một trong hai lý do: Hoặc vì thiếu mất điều cần nói, hoặc vì ôm theo những cái rườm rà không cần thiết. Chính sự thinh lặng sẽ giúp ta biết phải thêm điều gì và bỏ điều gì.

          Xin lưu ý: Thinh lặng chứ không phải là suy nghĩ. Suy nghĩ sẽ khiến bài thơ thành một tác phẩm đẽo gọt của người thợ làm thơ chứ không phải của thi sĩ.

          Thinh lặng không phải để suy nghĩ nhưng để thấm thật sâu hình ảnh ban đầu.

           2. THINH LẶNG TRONG CHÚA

          Với thơ đạo, thinh lặng thôi chưa đủ, còn phải thinh lặng trong Chúa.

          Dừng chân đứng lại: trời, non, nước,
          Một mảnh tình riêng Chúa với ta.

           Câu thơ nguyên thuỷ của Bà Huyện Thanh Quan là “Một mảnh tình riêng ta với ta”. Chỉ cần thay một trong hay chữ “ta” bằng chữ “Chúa”, thực tại trở nên khác hẳn, không còn cái ảm đạm, u hoài, phiền muộn, nhưng có một hơi ấm. Chỗ khác nhau giữa con người tự nhiên và con người Kitô hữu là sự hiện diện của Thiên Chúa. Sống hiệp nhất với Thiên Chúa thật giản dị: Chỉ cần nhớ Thiên Chúa đang hiện diện và ngỏ lời với Ngài, cùng suy nghĩ với Ngài về lịch sử, về cuộc sống.

          Trong Thiên Chúa, ta chiêm ngắm điều vừa cảm nhận. Ta có thể gọi đây là tâm nguyện hay chiêm niệm.

          Cần nhớ: Cầu nguyện là để gặp Chúa và sống với Ngài chứ không phải để làm thơ. Cầu nguyện “để làm thơ” có nghĩa là đang chia trí và bài thơ sẽ cạn cợt, chắp vá, què cụt.

           Cứ gặp Thiên Chúa cách vô vị lợi, một lúc nào đó sau khi cầu nguyện, thơ sẽ đến, thật êm đềm.

          3. HẠT GIỐNG ÂM THẦM MỌC

            Dụ ngôn Tin Mừng. 

           Đến một lúc, thơ chín, cả hình ảnh, thể thơ và vần điệu đều đến cho ta cùng một lúc, ta sẽ viết liền một mạch. Nếu bị “bí vần”, hãy cứ để mặc chỗ lạc vần và viết tiếp cho hết bài, đừng dừng lại lâu kẻo tứ thơ bị gián đoạn. Viết xong rồi sẽ đọc lại và chỉnh sửa sau. 

           Khi chỉnh sửa cần chú ý tránh thừa và tránh thiếu: gạch bỏ những ý thừa, câu thừa và từ thừa; sau đó sẽ thấy lộ ra những chỗ còn thiếu. Đây là áp dụng cách ta vẫn làm khi viết văn xuôi. Với bài thơ đã thật sự chín, thường chỉ phải sửa rất ít. 

            Chỉnh lại những từ và những câu chưa chính xác.