Thứ Bảy, 11 tháng 6, 2011

THƯ CỦA ĐỨC CHA LAMBERT DE LA MOTTE GỞI GIÁO HỮU ĐỊA PHẬN ĐÀNG TRONG


A.M.E. Vol 121, tr. 710
(Khoảng năm 1666)

Anh chị em thân mến
           
Vì anh chị em có thể chắc chắn về tình yêu mà tôi dành cho anh chị em và tình yêu ấy thật lớn lao đến nỗi có thể nói rằng nó đã thiêu đốt tôi, vì thế anh chị em cũng không thể nghi ngờ gì về sự mãn nguyện khi tôi nhận được bức thư của anh chị em. Nhu cầu của anh chị em đã khiến tôi hằng ngày luôn than vãn dưới chân Đức Giêsu Kitô để cầu xin lòng nhân lành của Ngài cho phép tôi đến với anh chị em, để đem đến cho anh chị em sự trợ giúp của một chủ chăn đích thật. Tôi sẽ không vui sướng chừng nào chưa được hiến cuộc sống mình vì lợi ích của linh hồn anh chị em; vì thật sự nếu tôi ao ước được sống giữa anh chị em thì tôi vẫn còn một ao ước lớn lao hơn đó là được chết vì anh chị em. Thật sự, chết vì anh chị em không phải là điều tôi làm quá điều tôi phải làm, vì Chúa chúng ta là Đức Giêsu Kitô đã làm như thế và Ngài cũng muốn tôi làm như thế. Vì vậy tôi giao cho anh chị em phải có bổn phận đóng góp vào ý định này bằng cách cho tôi xin lời khuyên bằng cách nào mà tôi có thể đến Đàng Trong được. Còn nếu do sự an bài của Thiên Chúa mà tôi không thể đến đấy được và vì phẩm tước của tôi khiến triều đình nghi ngờ thì tôi xin anh chị em để ý xem có ai hiền lành thánh thiện nhất trong anh chị em rồi gởi họ đi tàu thuyền đến với tôi để sau khi huấn luyện cho họ có khả năng làm linh mục, tôi sẽ truyền chức cho họ để họ đến nuôi dưỡng anh chị em bằng lời Chúa và thi hành các bí tích. Điều khiến tôi thuận tình theo ý kiến này là nỗi lo sợ người ta sẽ ra lệnh cấm những người ngoại quốc đến Đàng Trong và trong trường hợp ấy anh chị em sẽ không hoàn toàn thiếu linh mục. Thật tình mà nói, khi người ta ra một sắc chỉ như vậy thì tôi sẽ không thể liều mình hy sinh cả ngàn mạng sống của các thừa sai khi gởi họ đến với anh chị em. Giải pháp này hoàn toàn là do Thiên Chúa và vì anh chị em, đó là dấu hiệu biểu lộ tình yêu của Ngài đối với anh chị em.
Đây là ân sủng Chúa ban cho anh chị em trong khi các dân tộc khác không được. Hãy thường xuyên suy nghĩ về điều đó và luôn đặt trước mặt sự cam kết giữa Thiên Chúa và anh chị em khi chịu phép rửa tội. Khi ấy anh chị em hứa yêu Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết sức mình và yêu tha nhân như chính mình, từ bỏ ma quỷ và tội lỗi; còn Thiên Chúa bảo đảm với anh chị em rằng Ngài sẽ nhận anh chị em làm người của Ngài, làm con cái Ngài và hứa ban sự sống vĩnh cửu. Sự ưng thuận này không chỉ được ký kết trước những người tham dự bí tích rửa tội của anh chị em mà còn có sự hiện diện của Đức Trinh Nữ Rất Thánh, Thánh Giuse, bổn mạng của anh chị em, tất cả các thiên thần và các thánh trên trời. Như vậy anh chị em thấy đó là bổn phận hết sức lớn lao cần phải giữ, phải giữ hơn là hợp đồng được ký kết với bất kỳ người nào. Sự nhân lành của Thiên Chúa không dừng lại ở đó, Ngài ban cho anh chị em Chúa Thánh Thần, Đấng mà sau khi bàu chữa cho anh chị em, đã ở trong tâm hồn anh chị em cách đặc biệt, vì thế cho nên những Kitô hữu trong tình trạng ân sủng sẽ khác với những người khác trong tư tưởng, lời nói và hành động; đó là những người được đổi mới, thông phần vào bản tính Thiên Chúa nhiều hơn là bản tính nhân loại. Sự khác biệt này dễ dàng nhận thấy được nơi một người Kitô hữu và một người dân ngoại. Người này thì thề hứa sẽ không làm điều gì mất lòng Thiên Chúa ngay cả khi như vậy là trái với với khuynh hướng tự nhiên của mình. Trái lại, người kia chỉ tuân theo dục vọng của bản tính hư nát nơi mình. Người này thì nghĩ đến sự vĩnh cửu còn người kia thì chỉ chú trọng đến hiện tại. Người này thì tuân giữ lề luật Chúa còn người kia thì giữ luật lệ của giác quan. Do đâu mà có sự khác biệt giữa hai người xuất phát từ cùng một bản tính như vậy, chẳng phải là một người thì được đổi mới còn người kia thì không. Ngoài những hiệu quả do Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong các tâm hồn, còn có một điều rất tuyệt diệu này là: chính nhờ có Chúa Thánh Thần mà người ta được kết hợp với Chúa Giêsu, là Đấng mà sau sự kết hợp này đã xem họ như là những chi thể của riêng mình, đã ban cho họ những ân sủng mới cho đến muôn đời và quan tâm đến họ hơn là những người khác đã muốn giữ lại những phần cơ thể của riêng mình. Từ chân lý này, chúng ta có thể thấy rằng một người công chính thật quý giá biết bao đối với Chúa Cha, vì người ấy là một với Đức Giêsu Kitô. Sau biết bao nhân lành của Thiên Chúa đối với mình, chúng ta có thể nghi ngờ gì về hạnh phúc vĩnh cửu không? Không, anh chị em thân mến, đó là một tội ác khi tin điều ngược lại. Thánh Thần Thiên Chúa vẫn luôn kết hợp với chúng ta, không bao giờ rời xa nếu chúng ta không muốn, nghĩa là nếu chúng ta không phạm tội trọng, thậm chí điều này xảy ra là do chúng ta thiếu hiểu biết, vì yếu đuối hay do lỗi phạm, thì chúng ta vẫn còn cơ hội buộc ChúaThánh Thần quay trở lại trong tâm hồn chúng ta như trước, nếu chúng ta hết lòng hối cải vì đã xúc phạm, và lãnh nhận bí tích hoà giải.
Vậy thì ước gì không có một Kitô hữu nào thất vọng về ơn cứu rỗi của mình, ước gì những người công chính vui hưởng ân sủng của Chúa dành cho họ trong sự kết hợp với Thiên Chúa và ước gì những người tội lỗi cũng vui hưởng quyền năng phục hồi khi họ muốn, miễn là họ đừng chối từ phương thuốc chữa trị này.
Một lần nữa tôi kết thúc bức thư này với lời khuyên anh chị em hãy nhớ lại sự cam kết long trọng và lớn lao mà anh chị em đã ký kết qua bí tích rửa tội và tuân theo sự vận hành và thôi thúc của Thánh Thần Thiên Chúa đã nhận lãnh mà nhờ đó, nếu anh chị em trung tín, anh chị em sẽ đạt đến đỉnh hoàn hảo mà tôi hằng mong ước cho anh chị em, nhân danh Cha và Con và Thánh Thần.  

            chuyển ngữ
Lm. Phaolô Nguyễn Minh Chính