Thứ Bảy, 11 tháng 2, 2012

QUẬN CÔNG TRẦN ĐỨC HÒA: KỲ I

Công trạng Cống Quận công Trần Đức Hòa: Tiến cử kẻ chăn trâu làm thầy minh chúa



Di tích lăng mộ của Đào Duy Từ ở thôn Phụng Du, xã Hoài Hảo, huyện Hoài Nhơn, Bình Định 

Hà Đình Nguyên
Báo Thanh Niên


Một trong những việc chứng tỏ được sự “nhìn người” của ông Trần Đức Hòa mà người đời vẫn truyền tụng là ông đã nhận chân được bộ óc siêu việt của Đào Duy Từ ẩn giấu dưới lớp vỏ kẻ tôi tớ, đã bất chấp mọi thị phi để lưu dụng một con người như thế.

 Đào Duy Từ sinh năm 1572 tại làng Hoa Trai, huyện Ngọc Sơn, phủ Tĩnh Gia (Thanh Hóa). Lên 5 tuổi thì cha mất (cha ông là một kép hát nổi tiếng). Bà mẹ trẻ ở góa tảo tần nuôi con ăn học, nhưng vì ông là con nhà hát nên ông không được đi thi dù học rất giỏi (theo quan niệm “xướng ca vô loại” thời vua Lê, chúa Trịnh). Tiếc tài học của con, bà mẹ đã nhờ một viên xã trưởng đổi họ để Duy Từ mang họ mẹ.

 Theo một vài tài liệu, năm 21 tuổi (1593), Duy Từ đỗ thứ nhì kỳ thi Hương (trong hệ thống “tam trường”: thi Hương, thi Hội, thi Đình thời ấy) đời vua Lê Thế Tông. Đến kỳ thi Hội, do bà mẹ không chịu dan díu với viên xã trưởng nọ nên hắn tố cáo sự việc. Vậy nên ở trường thi Tây Đô (Thanh Hóa), Duy Từ bị đuổi và bị tống giam vì “gian lận thi cử”, còn ở quê nhà mẹ ông tự tử vì phẫn uất… Ôm hận nhưng không thất chí, Đào Duy Từ vẫn tự trau dồi kinh sử, mưu đồ đem chí lớn giúp đời…

 Năm 1625, Đào Duy Từ đã 53 tuổi, liều mình vượt sông Gianh vào Đàng Trong tìm minh chúa. Lưu lạc đến huyện Bồng Sơn (Bình Định), nghe tiếng quan Khám lý Quy Nhơn Trần Đức Hòa là người biết trọng nhân tài lại được chúa Sãi (Nguyễn Phúc Nguyên) tin cậy nên Đào Duy Từ xin vào làm kẻ chăn trâu cho một phú ông họ Lê để chờ cơ hội ra mắt vị quan này. Phú ông thấy Duy Từ tỏ rõ là một người học rộng, tài cao nhưng không gặp thời bèn đến thưa với Trần Đức Hòa. Quan Khám lý cho vời Đào Duy Từ đến, hỏi một biết mười, ứng đối trôi chảy bèn lưu lại cho làm gia sư, sau lại gả cô con gái độc nhất cho…

 Năm Đinh Mão (1627) Trần Đức Hòa vào chầu Sãi vương, dâng bài Ngọa long cương, tâu: “Bài này của thầy đồ Đào Duy Từ”. Chúa xem xong, lập tức cho vời Đào Duy Từ đến diện kiến. Đào Duy Từ  tới, thấy chúa mặc áo vải thường đứng đợi ở cửa nách, liền lui ra. Chúa biết ý, trở vào thay áo mũ chỉnh tề rồi mời Đào Duy Từ. Chúa, tôi gặp nhau như “rồng gặp mây, cá gặp nước”. Đào Duy Từ trình bày với chúa những kế sách chống giữ và mở mang bờ cõi mà ông đã dày công tâm huyết. Chúa Sãi mừng rỡ vô cùng, nắm tay ông, phán: “Ta chờ đợi thầy lâu lắm rồi. Sao thầy đến muộn quá vậy?”. Liền phong cho ông chức Nha úy Nội tán, tước Lộc Khê hầu, cho dự bàn quốc sự.

 Năm 1630, Đào Duy Từ đốc xuất đắp lũy Trường Dục ở huyện Phong Lộc (Quảng Bình). Đến năm 1631 lại đắp thêm một lũy nữa từ cửa biển Nhật Lệ đến núi Đâu Mâu (Đồng Hới, Quảng Bình) cao 1 trượng, dài 300 trượng, tục gọi là Lũy Thầy (thời ấy cả triều đình Đàng Trong - từ chúa đến các quan đều gọi Đào Duy Từ bằng “thầy” mà không gọi tên, cho nên lũy do ông đắp cũng được gọi là Lũy Thầy). Hệ thống phòng thủ này tỏ ra rất hiệu quả: 3 lần quân Trịnh vào vây hãm nhưng không sao vượt qua phòng tuyến này, đến nỗi có câu ca dao:

 “Khôn ngoan qua cửa sông La
Dù ai có cánh mới qua Lũy Thầy”.

 Ngoài việc đắp các lũy trên, trong vòng 8 năm, Đào Duy Từ đã giúp Chúa Nguyễn những việc lớn khác: Đưa phép duyệt tuyển và khảo thí để thu thuế, trưng binh và chọn người tài; Khuyến khích dân chúng khai hoang và làm thủy lợi để phát triển nông nghiệp; Tiến cử Nguyễn Hữu Dật sau thành hổ tướng Nam triều.

 Đào Duy Từ mất ngày 17 tháng 10 năm 1634, thọ 63 tuổi, được phong tặng Tán trị Dực vận công thần, Kim tử Vinh Lộc đại phu. Đến triều Minh Mạng truy phong Hoằng Quốc công. Đào Duy Từ còn để lại bộ binh thư Hổ trướng khu cơ và 2 khúc ngâm Ngọa Long Cương vãn và Tư Dung vãn cùng vở tuồng San Hậu thành.

 Sau này, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng thời bấy giờ bản thân Đào Duy Từ có đến 3 định kiến để không thể nào chen chân vào hàng ngũ quan chức. Đó là: 1. Con của kẻ “xướng ca vô loại”; 2. Là dân ngụ cư (từ miền ngoài lưu lạc vào, không phải là dân bản xứ nên rất bị khinh thường phải phục dịch trong các hội hè, đình đám… không công và chỉ được “hưởng” cơm thừa, canh cặn…); 3. Kẻ đầy tớ (trong gia đình phú ông). Tóm lại, lúc ấy Đào Duy Từ đang ở tầng lớp “dưới đáy xã hội”. Vậy mà, Trần Đức Hòa với địa vị cao sang của mình đã không ngại đàm tiếu, thị phi để phá bỏ định kiến rước họ Đào về nhà, tự tin gả người con gái duy nhất của mình cho kẻ ấy, khuyến khích và tạo điều kiện cho con rể phát triển tài năng rồi cũng tự tin tiến cử lên chúa thượng. Đào Duy Từ sẽ ra sao nếu không gặp Trần Đức Hòa?

 Quả thật, “tầm nhìn” của Cống Quận công Trần Đức Hòa không mấy ai có được, khiến người thời nay cũng không khỏi ngỡ ngàng… Thế nên trên ngôi mộ của ông, có câu đối: “Tảo phò Nguyễn chúa khai Vương nghiệp/Phục tiến Đào công tác Đế sư” (Sớm phò chúa Nguyễn mở nghiệp đế/Lại cử ông Đào làm thầy vua).