Thứ Bảy, 13 tháng 10, 2012

KÍNH GỞI QUÝ ĐỘC GIẢ


Kính thưa quý độc giả,

Ban Truyền thông & Văn hóa Giáo phận Qui Nhơn chúng tôi xin cám ơn quý vị đã ủng hộ chúng tôi trong suốt thời gian qua.

Nay với sự ra đời của trang Web Giáo phận Qui Nhơn, trang blog này không còn lý do gì để hiện hữu nữa. Chúng tôi xin phép được đóng trang blog và kính mời quý vị độc giả tiếp tục ủng hộ chúng tôi tại website Giáo phận Qui Nhơn, địa chỉ:

 http://gpquinhon.org/

Trân trọng kính chào,

Ban Truyền Thông & Văn Hóa
Giáo phận Qui Nhơn




Thứ Năm, 11 tháng 10, 2012

WEBSITE GIÁO PHẬN QUI NHƠN TỰ GIỚI THIỆU


Kính thưa quý độc giả 

“Tự bản chất, Giáo hội là truyền giáo” (AG 2) và truyền bá đức tin có nghĩa là mọi nơi mọi lúc phải tạo điều kiện cho cuộc gặp gỡ giữa con người và Đức Giêsu Kitô. Để tạo nên những cuộc gặp gỡ thần kỳ này, Giáo Hội buộc phải hiểu và chuyển mình cùng với thời đại để đáp ứng với những thay đổi thường xuyên của cộng đồng Dân Chúa. Những thách đố này đòi hỏi những ngôn ngữ mới và những phương pháp mới.
Chính vì thế, trên hành trình chào đón ngày kỷ niệm 400 năm Tin Mừng đến với Giáo phận Qui Nhơn vào năm 2018 cũng như hòa mình vào không khí của ngày khai mạc “Năm Đức Tin”, Giáo phận  Qui Nhơn hân hạnh khai trương trang web của Giáo phận tại địa chỉ:
Với trung tâm truyền giáo Nước Mặn là một trong những chiếc nôi chữ Quốc ngữ, với nhà in Làng Sông và Qui Nhơn, với tạp chí “Lời Thăm” được xem như là một trong những tờ tạp chí Công giáo bằng Việt ngữ sớm nhất phát hành rộng rãi trên toàn Đông Dương, trang web như là một tiếp nối truyền thống của các bậc cha anh đi trước trên con đường loan báo Tin Mừng.    
Việc ra đời của trang web Giáo phận Qui Nhơn, trước hết là để tạo nên điểm nối kết giữa những người con của giáo phận và kế đến là để góp phần nhỏ bé tô điểm thêm bức tranh vốn nhiều màu sắc và đa dạng của các phương tiện truyền thông, nói lên nỗ lực của giáo phận chúng tôi cùng với toàn thể Giáo Hội “Trên đường Tân Phúc Âm hóa”.
 Kính mong nhận được sự cộng tác và góp ý của tất cả mọi người để trang web Giáo phận Qui Nhơn ngày càng hoàn thiện.
 

Ban Truyền Thông & Văn Hóa
Giáo phận Qui Nhơn

 

Thứ Tư, 10 tháng 10, 2012

VĂN HÓA NGHI KỴ

 
Nguyễn Hưng Quốc
Trong bài “ Văn hóa và tham nhũng ”, chúng ta đã thấy vai trò quan trọng của sự tin cậy (hay tín nhiệm - trust) trong việc hình thành một xã hội lành mạnh và trong sạch. Tin cậy cũng đồng thời là một trong những điều kiện thiết yếu của xã hội dân sự, trong khi xã hội dân sự lại là điều kiện thiết yếu của dân chủ. Từ đó, cũng có thể nói tin cậy là một trong những nền tảng của dân chủ.
Trong các loại tin cậy, quan trọng nhất là sự tin cậy đối với cơ chế. Ở Mỹ, theo các cuộc điều tra dư luận, đa số quần chúng không tin, hoặc không hoàn toàn tin vào các chính khách, từ những người đang cầm quyền, kể cả Tổng thống, đến các Thượng nghị sĩ và Dân biểu. Tuy nhiên, không ai có ý định làm loạn hay toan tính lật đổ chính quyền bằng bất cứ phương tiện gì, trừ việc sử dụng lá phiếu trong các cuộc bầu cử. Tại sao? Câu trả lời đơn giản: Họ có thể không tin vào con người, nhưng họ tin vào cơ chế. Tin đến độ nhiều người cho hình thức dân chủ ở Mỹ hiện nay là đỉnh cao nhất trong lịch sử. Nó không thể hoàn hảo hơn được nữa. Đó là một trong những lý do chính khiến một số người đi đến nhận định về cái chết của lịch sử nói chung (the end of history).
Trong bài “ In China We (Don't) Trust ” đăng trên The New York Times ngày 11.9.2012, Thomas L. Friedman nêu lên một ý kiến quen thuộc: người Trung Quốc chỉ giỏi bắt chước chứ ít có khả năng sáng tạo. Giải thích cho ý kiến ấy, người ta chỉ tay vào lãnh vực giáo dục: ở đó, học sinh chỉ được nhồi nhét kiến thức một cách thụ động. Nhưng Friedman lại đặt câu hỏi: Tại sao Trung Quốc vốn là một dân tộc có lịch sử vô cùng vẻ vang, đã từng phát minh ra giấy, thuốc súng, pháo bông, la bàn… mà bây giờ lại chỉ làm được một công việc vô cùng khiêm tốn là lắp ráp iPod cho Mỹ? Câu trả lời của Friedman là: Điều Trung Quốc thiếu nhất hiện nay không phải là văn hóa cách tân (culture of innovation) mà là ở một điều căn bản nhất: sự tin cậy.
Theo Friedman, chỉ ở những xã hội con người tin cậy nhau, người ta mới cảm thấy an tâm chia sẻ ý kiến và tư tưởng với nhau, mới chịu hợp tác với nhau một cách tích cực và lâu dài, từ đó mới dẫn đến những sự sáng tạo bất ngờ và lớn lao. Nếu ai cũng cứ phập phồng lo sợ người khác ăn cắp ý tưởng của mình, đâm sau lưng hay chơi gác mình, thì không thể có bất cứ một sự dấn thân hay cam kết trọn vẹn nào. Ở Trung Quốc hiện nay, có tình trạng là mạnh ai nấy làm, mục tiêu duy nhất là những lợi tức ngắn hạn cho cá nhân mình. Hậu quả là người ta chỉ làm được những việc vùn vụn, nho nhỏ.
Friedman cũng phân tích: đó là điều vốn xa lạ với bản chất của người Trung Quốc.
Trước, người Trung Quốc không thế. Ngày xưa, cấu trúc xã hội Trung Quốc được đặt nền tảng trên gia đình và làng xã, ở đó, mọi người quan tâm đến nhau và tin cậy nhau. Sau này, Trung Quốc muốn xây dựng một cấu trúc xã hội mới dựa trên nền tảng pháp trị. Vấn đề là: họ đã phá vỡ cấu trúc xã hội truyền thống nhưng lại chưa xây dựng được cấu trúc xã hội hiện đại. Thành ra, xã hội Trung Quốc hiện nay đang ở trong một khoảng trống khủng khiếp. Hậu quả của nó là sự biến mất của lòng tin cậy đối với nhau.
Những gì đang diễn ra ở Trung Quốc cũng đang diễn ra tại Việt Nam. Văn hóa truyền thống Việt Nam dựa trên sự tin cậy và tình nghĩa đã bị phá vỡ trong khi một thứ văn hóa hiện đại đúng nghĩa lại chưa được xây dựng. Thứ văn hóa phổ biến làm nền tảng cho sinh hoạt xã hội Việt Nam hiện nay là văn hóa chụp giựt. Ai cũng cố chụp giựt để thỏa mãn những lợi ích riêng tư và tức thời của mình. Trong một hoàn cảnh như thế, rất khó giữ được sự tin cậy.
Ở Úc, tôi có một số bạn bè làm việc trong các lãnh vực ngân hàng và kỹ thuật. Họ thường được công ty của họ cử về Việt Nam để vận động cho một số dự án liên kết giữa Úc và Việt Nam. Mỗi một cuộc vận động và chuẩn bị như thế có thể kéo dài cả một hai năm trời. Rồi người ta thường về lại Úc với đôi bàn tay trắng. Phần lớn các dự án, được hình thành một cách cực kỳ công phu và tốn kém, không thể biến thành hiện thực. Quần quật tìm tài liệu, phỏng vấn người này người nọ, tính toán các chi tiêu và khả năng thu nhập về sau, lập nên một kế hoạch chi tiết, rồi nộp lên Bộ liên hệ. Và chờ. Chờ từ tháng này qua tháng khác. Cuối cùng, nhận được câu trả lời chính thức: Không được.
Nhưng chưa hết, một thời gian sau, người ta phát hiện: một dự án tương tự như vậy, do một công ty khác nộp, đã được chấp nhận. Tìm hiểu, người ta phát hiện thêm một chuyện khác: dự án mới được chấp nhận ấy, thật ra, chính là dự án mà những người bạn tôi đã hoàn tất. Té ra, các giới chức liên hệ đã lấy ý tưởng và kế hoạch trong bản dự án ấy giao cho một người hoặc một công ty quen biết nào đó để họ tiến hành. Công của bạn tôi hóa thành công cốc. Tiền bạc của công ty của họ đổ ra trong mấy năm trời như muối đổ biển.
Trước những cung cách làm việc như thế, thật khó giữ được sự tin cậy.
Người ta không tin cậy nhà nước. Người ta cũng không tin cậy nhau. Trong quan hệ liên cá nhân (interpersonal) giữa người này và người khác, người ta cũng đầy nghi ngờ. Lúc nào cũng có cảm giác là người khác lợi dụng hay lừa gạt mình. Đi mua hàng thì lúc nào cũng thấp thỏm sợ bị bán hàng giả hoặc bán quá giá. Có việc cần vào cơ quan nhà nước thì phập phòng lo bị bắt chẹt và bị đòi hối lộ. Trao đổi ý kiến về một dự án gì đó với đồng nghiệp thì lại ngại người ta ăn cắp ý tưởng của mình. Đáng buồn hơn nữa: ngay trong gia đình người ta cũng nghi ngại nhau.
Không thể xây dựng bất cứ một giá trị bền vững nào cho xã hội và đất nước trên nền tảng của sự thiếu tin cậy trầm trọng như vậy.
Trở ngại căn bản trên con đường hiện đại hoá đất nước, như vậy, nằm ngay ở văn hóa: văn hóa nghi kỵ.