Thứ Ba, 30 tháng 11, 2010

TIN GIÁO PHẬN QUI NHƠN THÁNG 11

ü THÁNH LỄ CẦU NGUYỆN CHO HỘI PHAOLÔ CHÂU, ÂN NHÂN-ÂN SƯ VÀ BẰNG HỮU CỦA CCSLSQN.
06/11/2010 lúc 10g00 tại nguyện đường Chủng Viện Qui Nhơn anh em CCSLSQN thuộc Bình Định đã tổ chức xin dâng thánh lễ cầu hồn đặc biệt. Đức Cha phó Matthêô Nguyễn văn Khôi đã chủ sự thánh lễ đặc biệt cầu nguyện cho các linh hồn đã qua đời thuộc hội Phaolô Châu, các ân sư, ân nhân và bằng hữu CCSLS-QN. Đồng tế trong thánh lễ còn có cha linh hướng hội CCSLS-QN Giuse Huỳnh Văn Sỹ, cha Phaolô Trịnh Duy Ri, cha sở Hòa Ninh Stêphanô Dương Thành Thăm, cha sở Lục Lễ Phêrô Nguyễn Đình Hưng. Có khoảng 30 anh em và hơn 30 chủng sinh tham dự thánh lễ cầu hồn nầy. Sau thánh lễ anh em đã quây quần bên nhau trong bữa cơm đạm bạc và thân tình.
Trước Thánh Lễ một số anh em trong vùng cũng đã gặp gỡ, trao đổi những thông tin cần thiết cho nhau.
ü NGÀY TƯỞNG NIỆM NHÀ THƠ HMT
Ban văn Hóa Bình Định đã có sáng kiến rất hay khi tổ chức tưởng niệm nhà thơ Hàn Mạc Tử. Năm nay, nhiều nơi ở Việt Nam tổ chức tưởng niệm 70 năm nhà thơ Hàn Mạc Tử qua đời (11/11/1940-11/11/2010). Riêng tại Qui Nhơn, Tiểu ban Mục vụ Văn hóa Hạt Bình Định, Câu lạc bộ Thơ văn Công giáo Đồng Xanh Thơ Qui Nhơn và tập thể Sinh viên Bình Minh đã phối hợp tổ chức Ngày Tưởng Niệm Nhà Thơ Hàn Mạc Tử ngay tại Qui Hòa, nơi nhà thơ đã sống những tháng cuối cùng và nhắm mắt lìa đời, vào ngày Thứ Bảy 06-11-2010, từ 8 giờ sáng đến 4g 30 giờ chiều.
Giữa những tuần mưa bão, Chúa thương cho gần hai ngày nắng đẹp để chuẩn bị và tổ chức. 8g00 sáng chương trình được khai mạc tại nhà thờ Qui Hòa, ngoài các thành viên Ban Văn hóa và Câu lạc bộ, các bạn trẻ đạt Giải Văn Thơ Linh mục Đặng Đức Tuấn lần I, tập thể Sinh viên Bình Minh và một số nữ tu, còn có một số thân hữu từ hai giáo xứ Gò Duối và Tuy Hòa. Sau phần khai mạc là hai bài thuyết trình: - Cha Gioan Võ Đình Đệ trình bày về Khung cảnh lịch sử và địa lý Qui Hòa liên quan đến HMT, - Cha Gioan Phêrô Võ Tá Khánh trình bày về bước chuyển tâm linh của HMT với đề tài: Hàn Mạc Tử, cuộc vượt qua giữa đời thường. 10g30 thánh lễ cầu nguyện do cha FX Lữ Minh Điểm, cha sở Qui Hòa chủ tế, cùng các cha Phaolô Ri, Gioakim Lộc, Antôn Sơn, Gioakim Hùng SVD và cha Gioan Phêrô Khánh đồng tế.
Sau bữa trưa, các bạn trẻ đi thăm đài tưởng niệm HMT.
13g30 chương trình Thơ Nhạc HMT được tổ chức tại Hội trường Bệnh viện Phong Da liễu Trung ương Qui Hòa, với sự chủ tọa của Đức Cha Matthêô Nguyễn Văn Khôi, và sự hiện diện của Cha Phaolô Nguyễn Minh Chính, Trưởng ban Mục vụ Văn hóa Truyền thông Giáo phận, các nữ tu Phan Sinh tại Qui Hòa, Bác sĩ Vũ Bá Toản thuộc Ban giám đốc Bệnh viện Qui Hòa, Hội Đồng Bệnh Nhân và rất đông bà con trong khu vực. Mặc dù thời gian tập luyện ngắn ngủi, tất cả các tiết mục đều xuất sắc: Các bài đơn ca thơ HMT phổ nhạc, múa phụ họa và màn vũ Ave Maria do ca đoàn Phaolô và các ứng sinh dòng Phaolô phụ trách, bản hợp xướng Đà Lạt Trăng Mờ do Nhóm sinh viên Bình Minh thể hiện, phần ngâm thơ HMT do hai nghệ sĩ thuộc Đoàn Ca Kịch Bài Chòi Bình Định thể hiện.
Ngày tưởng niệm được kết thúc bằng nghi thức cầu nguyện tưởng niệm tại phần mộ nhà thơ Hàn Mạc Tử và chia tay vào lúc 16g30.
ü ĐỨC CHA PHÓ MATTHÊÔ BAN PHÉP THÊM SỨC TẠI QUI HÒA.
Ngày 14/11, lúc 6 giờ sáng Đức Cha phó đến tại nhà thờ giáo xứ Qui Hòa để cùng với cha sở Phanxicô Xaviê Lữ Minh Điểm, các nữ tu Dòng Phan Sinh Thừa Sai Đức Mẹ và toàn thể cộng đoàn giáo xứ long trọng cử hành lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam. Nhân dịp này Đức Cha đã ban phép thêm sức cho 32 em và cho 17 em rước lễ lần đầu. Phần lớn các em thuộc các gia đình bệnh nhân phong. Trong bài giảng, Đức Cha đã mời gọi các em dùng ơn bí tích đã lãnh nhận trong ngày hồng phúc này để dù không được chết vì đạo như các thánh, thì cũng có thể sống vì đạo như các ngài và cố gắng làm chứng cho đức tin theo khả năng của mình. Sau thánh lễ, Đức Cha ở lại chụp hình lưu niệm với từng gia đình các em, sau đó dùng điểm tâm với cha sở tại nhà xứ rồi trở về.
ü MỪNG TRỌNG THỂ LỄ THÁNH STÊPHANÔ CUÉNOT THỂ.
          Như đã bàn trong dịp tĩnh tâm tháng, vì thời tiết xấu mỗi giáo xứ cử hành trọng thể trong giáo xứ mình chứ không thể cử hành như thường lệ hàng năm tại đền thờ Stêphanô, Vĩnh Thạnh (Nam Bình).  Ngày 11/11/2010, tại nhà thờ chính tòa Qui Nhơn vào lúc 05g00 đã cử hành trọng thể lễ đồng tế do Đức cha phó chủ sự mừng lễ vị thánh giáo phận là Stêphanô Cuénot Thể. Có 13 linh mục gần thành phố đã về đồng tế và khá đông các tu sĩ, chủng sinh và bà con giáo dân tham dự thánh lễ. Trong bài giảng lễ, Đức Cha phó Matthêô đã làm nổi bật hình ảnh thánh Stêphanô vừa tài ba vừa nhân đức là mẫu gương sống động vẫn còn giá trị cho mỗi người chúng ta hôm nay.
ü PHÁI ĐOÀN QUI NHƠN THAM DỰ ĐẠI HỘI DÂN CHÚA TẠI SÀI GÒN
          Đại Hội Dân Chúa được tổ chức tại Trung Tâm Mục Vụ Tổng Giáo Phận Sài Gòn từ ngày 21 đến 25/11/2010. Về tham dự Đại Hội có hầu hết các giám mục của 26 giáo phận trên toàn quốc, các Cha Tổng Đại Diện, các đại biểu linh mục, đại biểu các Dòng tu và giáo dân: tất cả độ 300 người. Đây là một sự kiện lớn trong bối cảnh Năm Thánh Giáo Hội Việt Nam. Ngoài ra còn có đại diện các Giáo Hội tại các nước như Pháp, Canada, Nhật, Đài Loan, Malaysia, Thái Lan, và đại diện cộng đồng công giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ.
          Về phía giáo phận Qui Nhơn, Đức Cha Phêrô vì lý do sức khỏe không đi tham dự được, nhưng ngài đã cử Đức Cha phó Matthêô, Cha Tổng Đại Diện, Cha Hạt Trưởng Bình Định, Cha Phaolô Nguyễn Minh Chính, đặc trách Ban Truyền Thông của giáo phận, và hai giáo dân là ông Bùi Phương Hạc (giáo xứ Tuy Hòa) và ông Trịnh Văn Hồng (giáo xứ Chính Tòa), đi tham dự.
           Hôm trước ngày khai mạc Đại Hội, ngày 20/11, từ lúc 14 giờ đến 18 giờ 30, Đức Cha phó Matthêô chủ trì cuộc họp của Ban Giám Khảo tôn giáo gồm các giám mục đã được HĐGM đề cử, để nghe 5 nhóm thiết kế dự án xây dựng Trung tâm hành hương Thánh Mẫu La Vang trình bày và sau đó đi đến kết luận.
          Đại Hội khai mạc vào chiều ngày 21 với thánh lễ đồng tế tại Vương Cung Thánh Đường Đức Bà Sài Gòn. Trong ba ngày tiếp theo, buổi sáng các đại biểu nghe các bài thuyết trình và tham luận, buổi chiều hội thảo theo nhóm và đúc kết. Nội dung xoay quanh 3 đề tài chính: Giáo hội mầu nhiệm, hiệp thông, sứ vụ. Trong phần sứ vụ, Đức Cha phó Matthêô đọc bài tham luận với đề tài: Việc giáo dục lương tâm trong bối cảnh truyền giáo tại Việt Nam hôm nay. Bầu khí các giờ hội thảo nhóm và đúc kết rất sôi nổi. Vào mỗi buổi chiều, trong khi các đại biểu hội thảo theo nhóm thì các giám mục họp để bàn một số công việc và góp ý cho bản dự thảo sứ điệp Đại Hội Dân Chúa. Ngày cuối cùng của Đại Hội: buổi sáng toàn thể Đại Hội góp ý bổ sung cho bản dự thảo sứ điệp, các đại biểu phát biểu cảm tưởng, đại diện các Giáo Hội bạn chia sẻ thông tin và tâm tình; buổi chiều dành cho thánh lễ bế mạc. Đại Hội kết thúc bằng Đêm Hạnh Ngộ, một chương trình văn nghệ rất đặc sắc kéo dài suốt 4 tiếng đồng hồ, mà trung tâm điểm là việc công bố Sứ điệp Đại Hội Dân Chúa Việt Nam 2010.
Nhìn chung, Đại Hội đã diễn ra rất tốt đẹp và tích cực. Các đại biểu có dịp thể hiện mầu nhiệm Giáo Hội hiệp thông qua những ngày cùng sống chung với nhau, cùng cầu nguyện, suy nghĩ và đóng góp ý kiến để xây dựng Giáo Hội Việt Nam trong thời đại hiện nay. Các đại biểu, đặc biệt trong các giờ hội thảo nhóm, không ngần ngại mổ xẻ những vấn đề nổi cộm của Giáo Hội một cách rất dân chủ và chân thành, trong đó việc xây dựng một hàng linh mục thánh thiện được đề cập đến nhiều nhất, đến độ nhiều người đã nói: việc canh tân Giáo Hội phải bắt đầu bằng việc canh tân hàng linh mục.
Sáng hôm sau, 26/11, Đức Cha phó đi Mỹ Tho để dự lễ kỷ niệm 50 năm thành lập giáo phận Mỹ Tho. Buổi chiều, nhờ sự xếp đặt của Cha Vinh Sơn Phạm Trung Thành, Bề Trên Giám Tỉnh Dòng Chúa Cứu Thế, Tổng Thư Ký Ủy Ban Giám Mục về nghệ thuật thánh, Đức Cha phó đã gặp gỡ một số cộng tác viên của Ủy Ban tại trung tâm mục vụ Tổng Giáo Phận Sài Gòn, để chào thăm và trao đổi về chương trình làm việc của Ủy Ban. Ngày thứ bảy, 27/11, Đức Cha trở về Qui Nhơn cùng với Cha Tổng Đại Diện và Cha Hạt Trưởng Bình Định.
  Sau khi kết thúc Đại Hội Dân Chúa vào ngày 25/11, Cha Trưởng ban Truyền Thông giáo phận Phaolô Nguyễn Minh Chính đã ở lại TTMV Sàigòn để dự cuộc họp vào ngày 26/11 của Uỷ Ban Truyền Thông trực thuộc HĐGMVN theo lời mời của Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Khảm. Thành phần tham dự cuộc họp này ngoài các vị đặc trách Truyền Thông của mỗi giáo phận, còn có các chuyên viên phụ trách về truyền thông trong suốt kỳ đại hội vừa qua.
Cuộc gặp gỡ đã kết thúc vào buổi trưa cùng ngày trong bầu không khí hiệp thông và xây dựng, ảnh hưởng của Đại Hội Dân Chúa vừa qua. Dự định sẽ có các phiên họp khác của UBTT toàn quốc trong thời gian trước khi có các phiên họp của HĐGMVN.

Ø  SINH HOẠT GIÁO HẠT BÌNH ĐỊNH.
- Xem xét để sửa chữa đền thờ Stêphanô tại Vĩnh Thạnh (Nam Bình): Trong buổi sáng ngày 27/10/2010 hai đức cha giáo phận đã về đền thờ Stêphanô để xem xét thực tế chuẩn bị cho công việc sửa chữa. Ngoài Đức cha chính Phêrô và Đức Cha phó Matthêô, tháp tùng với hai Đức Cha có cha hạt trưởng Giuse Lê Kim Ánh, cha quản lý Gioan Võ Đình Đệ, cha giám đốc chủng viện Giuse Huỳnh Văn Sỹ, cha đặc trách văn phòng TGM Anrê Huỳnh Tấn Nha. Cha sở Nam Bình Phaolô Trương Đình Tu đã đón tiếp chu đáo. Đích thân Đức Cha chính Phêrô xem xét và chỉ thị cha sở Nam Bình sẽ phối hợp cùng Đức Cha phó để lo việc sửa chữa và nối dài nhà thờ hơn, xây dựng nhà xứ, nhà sinh hoạt. Trước mắt cha sở Nam Bình sẽ lo một số thủ tục giấy tờ cần thiết như xin di dời đường dây điện trung thế đi ngang qua sân nhà thờ có thể gây nguy hiểm, xin bắt điện ba pha và sau đó lo các thủ tục xây dựng khác.
Đền thờ Stêphanô là một trong những điểm hành hương của giáo phận. Trước đây là nhà thờ Vĩnh Thạnh sau đó dưới sự hướng dẫn của Đức Cha Phaolô Huỳnh Đông Các, Đức Cha phó Matthêô Nguyễn Văn Khôi lúc bấy giờ là cha sở Nam Bình đã đích thân lo việc tái thiết lại nhà thờ, lấy lại hình thức vốn có, phục hồi những chỗ hư hỏng... Khi hoàn thành đặt tên là "Đền Thờ Stêphanô". Hiện nay đền thờ có phần xuống cấp. Để chuẩn bị kỷ niệm 150 năm ngày Thánh Giám Mục giáo phận Stêphanô tử đạo (1861-2011) vào năm tới, Đức Cha Phêrô đã quyết định cho tu sửa lại đền thờ cho xứng với một trung tâm hành hương của giáo phận. Hiện nay cha sở Nam Bình đã bắt đầu lo một số thủ tục cần thiết.
- Bổ nhiệm cha phó giáo xứ Ngọc Thạnh. Ngày 29/10/2010 Đức Giám Mục giáo phận đã ký văn thư chính thức bổ nhiệm cha Matthêô Nguyễn Ngọc Vũ, nguyên cha phó giáo xứ Nam Bình, sau thời gian tạm thời ở nhà thờ Chính Tòa, nay về làm cha phó giáo xứ Ngọc Thạnh. Ngày 01/11/2010 Cha Matthêô Vũ đã đến giáo xứ Ngọc Thạnh để nhận nhiệm vụ. Tại nhà xứ Ngọc Thạnh, Đức Cha phó đã có đôi lời nhắn nhủ và gởi cha Matthêô đến cho cha sở Ngọc Thạnh Antôn Trần Liên Sơn. Cha Sơn rất vui vẻ để đón nhận thêm một cha phó và tỏ lòng biết ơn Đức Cha đã cho tăng thêm nhân sự cho giáo xứ với sự hiện diện đại diện Ban Chức Việc giáo xứ Ngọc Thạnh, và một số quý cha như cha hạt trưởng Bình Định Giuse Lê Kim Ánh, cha quản lý Gioan Võ Đình Đệ, cha giám đốc chủng viện Giuse Huỳnh Văn Sỹ, các cha phó giáo xứ chính tòa và Ngọc Thạnh,… Sau bữa cơm thân mật, một số cha đến xem cho biết phòng ở và làm việc của tân cha phó.
Ngọc Thạnh hiện nay là một giáo xứ có địa bàn khá rộng, đặc biệt có giáo họ Vân canh thuộc huyện miền núi và là vùng cần chú trọng đem ánh sáng Tin Mừng đến cho dân chúng tại đó. Gần đây cha sở đã cố gắng xây dựng lại cơ sở vật chất nhà thờ Vân Canh và cử hành thánh lễ cũng như thăm viếng bà con ở đó thường xuyên hơn. Hy vọng có thêm nhân sự sẽ giúp cho công việc giáo xứ ổn định và phát triển từng bước trong tương lai.
           - Tiểu ban Tu sĩ hạt Bình Định. Vào lúc 9 giờ sáng ngày 03.11.2010 tại Cộng đoàn Phan Sinh Thừa Sai Đức Mẹ. Liên tu Sĩ Hạt Bình Định (LTSHBĐ) tổ chức cuộc họp với nội dung:
-     Chuẩn bị ngày 03.12.2010 lễ Thánh Phanxicô Xavie. Bổn mạng các xứ truyền giáo. Ngày cử hành Năm Thánh với các Dòng Tu đang phục vụ trong Giáo Phận. (cấp Giáo Hạt).
-     LTSHBĐ sẽ họp định kỳ một năm hai lần vào tháng 1 và tháng 7  (tháng 1 họp tại HD MTG Qui Nhơn với nội dung truyền giáo; tháng 7 tại CĐ Phaolô với nội dung góp phần đào tạo và phát triển ơn gọi tại Giáo xứ, cộng đoàn, Hội Dòng…)
Sau cuộc họp LTSHBĐ dùng cơm trưa với CĐ Phan Sinh. Sau  giờ cơm LTSHBĐ thăm và gởi quà đến quý Soeur hưu dưỡng CĐ Phan Sinh tại Quy Hòa ; quý Soeur hưu dưỡng HD MTG Qui nhơn tại Ghềnh Ráng và mừng bổn mạng.
       - Thánh lễ cầu nguyện cho cha Anrê Trần Cao Tường. Sáng lập viên Mạng Lưới Dũng Lạc và hỗ trợ thành lập các Câu lạc bộ Sáng tác Thơ văn Công giáo Đồng Xanh Thơ, cha Anrê Trần Cao Tường đã được Chúa gọi về lúc 11g56 ngày 21-11-2010 tại Mỹ. Với lòng biết ơn ngài, ngày 25-11-2010, Ban Mục vụ Văn hóa Hạt Bình Định và Câu lạc bộ Sáng tác Thơ văn Công giáo Đồng Xanh Thơ Qui Nhơn đã tổ chức thánh lễ cầu nguyện tại Trung Tâm Thánh Thể Thánh Mẫu Ghềnh Ráng, lúc 17g15, do cha Gioakim Đỗ Sỹ Hùng SVD chủ lễ và cha Gioan Phêrô Võ Tá Khánh giảng lễ.
          - Cha Anrê Hoàng Minh Tâm mừng 40 năm ngày thụ phong linh mục. Ngày 28/11/2010, lúc 09g00, tại nhà thờ giáo xứ Kiên Ngãi, cha sở Anrê Hoàng Minh Tâm đã tổ chức trọng thể mừng kỷ niệm 40 năm ngày thụ phong linh mục và mừng lễ quan thầy Anrê tông đồ sắp đến (30/11). Thánh lễ đồng tế do Đức cha phó Matthêô chủ sự với 14 linh mục trong giáo phận đồng tế. Có khá đông các nữ tu mến thánh giá và Phaolô và có đông đảo bà con giáo dân xa gần về tham dự đặc biệt có sự hiện diện của thân sinh cha Hoàng Minh Tâm.
          Trong bài giảng lễ, Đức Cha phó nhấn mạnh việc cha Tâm trong 40 năm linh mục, thì đã có đến 35 năm làm cha sở. Làm cha sở là một trọng trách và có vai trò quan trọng trong đời sống Giáo Hội. Sau thánh lễ cha Anrê đã có lời cám ơn đặc biệt đến Đức Cha Chính Phêrô, Đức Cha phó và mọi thành phần trong cộng đoàn dân Chúa đang hiện diện. Có một đại diện giáo dân trong giáo xứ cũng dâng lời cảm ơn. Cuối thánh lễ là vũ khúc vui tươi của các em thiếu nhi trong giáo xứ "Huyền cầm tấu vang" để tạ ơn thiên chúa đã giữ gìn cha Anrê trong chặng đường dài 40 năm qua và đó cũng là chúc mừng gởi đến cha Anrê và những người tham dự thánh lễ hôm nay
Được biết cha Anrê Hoàng Minh Tâm sinh năm 1944 tại Quảng Bình, gia nhập tiểu chủng viện chân phước tự (giáo phận Vinh) vào 1956, nhập đại chủng viện Xuân Bích Huế 1964  và được vinh dự thụ phong linh mục vào ngày 28/11/1970 ở tại Manila (Philippines) do chính tay Đức Giáo Hoàng Phaolô VI phong chức. Từ 1970 đến 1975 cha theo học chương trình chính trị kinh doanh tại đại học Đà Lạt. Vào năm 1975, cha được bổ nhiệm về chăm sóc giáo xứ Hòa Ninh và từ 1994 đến 1997 cha kiêm luôn coi sóc giáo xứ Qui Hiệp. Trong thời gian 1975 đến 1980 cha là giáo sư chủng viện Qui Nhơn và tới nay cha vẫn tiếp tục tham gia dạy học cho học viện Mến Thánh Giá Qui Nhơn. Từ năm 1997 cho đến nay cha được bổ nhiệm về làm cha sở giáo xứ Kiên Ngãi.

Ø SINH HOẠT GIÁO HẠT PHÚ YÊN
- Cứu trợ lũ lụt ở Phú Yên.
1. Tình hình lũ lụt ở Phú Yên:
Vừa qua, mưa lớn kéo dài và lũ lụt đã liên tiếp xảy ra từ ngày 23/10/2010 đến nay (29/11/2010), tại các tỉnh Miền Trung, trong đó có tỉnh Phú Yên. Các hồ thuỷ điện Krông H’Năng, Sông Hinh và Sông Ba Hạ đã liên tục xả lũ làm cho tình trạng lũ lụt kéo dài cả tháng nay, gây thiệt nhiều cho bà con. Nhiều vùng trong tỉnh Phú Yên bị thiệt hại khá nặng, nhất là các xã Hoà Thịnh, Hoà Mỹ Đông (huyện Tây Hoà), Hoà Tâm, Hoà Xuân Đông, Hoà Xuân Tây (huyện Đông Hoà), An Thạch, An Định (huyện Tuy An), phường Phú Thạnh (TP. Tuy Hoà)…: 06 người chết, 12 người bị thương, hàng ngàn ngôi nhà bị ngập trong nước lũ, nhiều nhà bị sập hoàn toàn, bị hư hỏng, xiêu vẹo; hư hỏng và mất mát tài sản, lúa gạo và hoa màu bị ngập nước hư hại rất nhiều, do ô nhiễm nước lụt rất nhiều người thiếu nước sạch để uống…
2. Tình hình cứu trợ trong Hạt Phú Yên:
            Được sự hổ trợ của Ban BAXH-Caritas Qui Nhơn, Cha Lê Quang Uy, Cha Nguyễn Huy Điệp và các ân nhân… Ban BAXH-Caritas Phú Yên đã trợ giúp cho:
            - Giáo xứ Mằng Lăng 6.000 kg gạo.
            - Giáo xứ Đông Mỹ 5.000 kg gạo.
            - Giáo xứ Tịnh Sơn 500 kg gạo và 3.000.000 VND cho gia đình một giáo dân bị lũ cuốn chết.
            - 7.000 kg gạo, 700 lít dầu ăn, 700 thùng mì gói và 700 lít nước mắm cho bà con các vùng bị lũ lụt : thôn Hiệp Đồng xã Hoà Xuân Tây, thôn Phú Khê xã Hoà Xuân Đông, thôn Mỹ Thành xã Hoà Mỹ Tây.
            - Hỗ trợ mai táng 2.000.000 VND cho một người bị chết trôi ở Hoà Xuân Nam, Đông Hoà.
           Dòng Đồng Công cũng đã cứu trợ cho bà con giáo xứ Mằng Lăng 3.000 kg gạo và ở thôn Thạch Tuân 1 và Thạch Tuân 2, xã Hoà Xuân Đông 3.000 kg gạo và 300 lít dầu ăn.
          Đến nay, (29/11/2010) mưa lớn vẫn còn, nhiều nơi cũng còn ngập lụt, rất nhiều bà con đang đói rét và đau bệnh… Ban BAXH-Caritas Phú Yên vẫn đang vận động các ân nhân, tìm nguồn hỗ trợ để cứu giúp đồng bào.

ü  TIN DÒNG MTG QUI NHƠN
          - Bà Maria Rufina Nguyễn Thị Hậu. Ngày 29.10.2010, Nữ tu Maria Rufina Nguyễn Thị Hậu đã được Chúa gọi về an nghỉ lúc 19 giờ 30 tại Cộng đoàn Hưu Dưỡng Ghềnh Ráng. Hưởng thọ 90 tuổi với 50 năm khấn dòng.
          Nữ tu Maria Rufina sinh ngày 26.7.2010 tại Thác Đá, Hoài Đức, Hoài Nhơn, Bình Định. Chị là người con thứ ba trong một gia đình đạo đức có sáu anh chị em. Năm lên 20 tuổi, Chị gia nhập Phước Viện Cù Và. Tuy gặp rất nhiều khó khăn từ phía gia đình và thời cuộc nhưng với lòng khao khát và quyết tâm dâng mình phụng sự Chúa, Chị kiên trì cầu nguyện và can đảm vượt qua bao gian nan. Sau thời gian tích cực rèn luyện, Chị được mặc áo đen vào năm 1945. 
          Năm 1959, Đức Giám Mục Giáo phận Qui Nhơn thống nhất các Phước Viện Mến Thánh Giá vào một Hội Dòng duy nhất, Chị xin gia nhập Tập Viện Gò Thị và được  tuyên khấn lần đầu vào ngày 31.5.1960. Chị tuyên khấn trọn đời vào ngày 25.6.1966.
           Sau khi tuyên khấn lần đầu, Chị được sai đi phục vụ các nơi: Nhà Chung Cù Và, Gò Thị, Pleiku; Cô Nhi Viện Gò Thị, Cô Nhi Viện Ghềnh Ráng và Nhà Mẹ Trinh Vương. Khi tuổi cao sức yếu, Chị về nghỉ hưu tại Cộng đoàn Hưu Dưỡng Ghềnh Ráng cho đến cuối đời. 
           Suốt 50 năm khấn dòng, Chị luôn sống trong sự bình dị, khiêm tốn chấp nhận mọi sự Chúa gởi đến qua Hội dòng trong nhẹ nhàng vui tươi. Chị âm thầm phục vụ trong những công việc bé nhỏ nhưng với tấm lòng yêu thương lớn. Những ngày cuối đời, Chị thông phần với Đức Kitô trong đau đớn của bệnh hoạn tuổi già và hoàn tất hy lễ đời mình trong bình an thanh thản.
          Thánh lễ An táng Chị Rufina được cử hành tại Nhà nguyện Hưu dưỡng Ghềnh Ráng do Đức Cha Matthêô Nguyễn Văn Khôi chủ lễ và 18 Linh mục trong Hạt Bình Định đồng tế.
           Trong bài giảng lễ, Cha Gioan Võ Đình Đệ nhấn mạnh đến niềm tin của một con người suốt cuộc đời sống cho Chúa và cho người khác: "Kính thưa cộng đồng phụng vụ, ngẫu nhiên, tình cờ hay an bài của Cha trên trời mà hôm nay một nữ tu, một tỳ nữ của Chúa có một đời sống âm thầm được tiễn đưa về nhà Cha trong ngày Chúa Nhật, ngày Chúa sống lại, ngày quy tụ theo truyền thống công giáo. Bà Maria Rufina từ giã cuộc đời như trái cây đã chín muồi đúng độ lìa cành. Bà đã ra đi thanh thản như một người đã hoàn thành nhiệm vụ. Bà đã sống trọn kiếp người vì đã sống trọn ơn nghĩa với Chúa, vì đã trung thành chu toàn bổn phận của một người nữ tu chân chính: từ bỏ mình vì Chúa, dâng hiến cho Chúa và quên mình phục vụ Hội thánh. Ðây là lịch sử của một cuộc đời vì đức tin. Nó chỉ được giải thích như là một cuộc đời rao giảng Chúa Giêsu Kitô, bằng việc yêu mến và phục vụ"
           Tham dự Thánh Lễ An táng Chị Rufina có đông đảo chị em trong Hội Dòng, thân quyến cũng như bà con giáo dân Giáo xứ Ghềnh Ráng hiệp dâng lời nguyện cầu cho Chị và tiễn đưa Chị về nghĩa trang Bùi Thị Xuân, Qui Nhơn an nghỉ. 

Thứ Hai, 29 tháng 11, 2010

TÔI ĐI DỰ ĐẠI HỘI DÂN CHÚA

Phêrô Bùi Phương Hạc


16. h 00 ngày 21.11.2010. Tôi bước chân vào cổng ĐCV Sài gòn. Thế là tôi bước vào một thời khắc lịch sử của đời mình, của Giáo hội Việt nam. Mang trong mình giòng máu người con chân chất của Giáo Phận Qui Nhơn, Giáo Phận đang trong những năm chuẫn bị đón mừng 400 năm Tin Mừng đến với Giáo Phận (tháng 7 năm 1618 cha Francesco Buzomi đến thành lập trụ sở truyền giáo tại Nước Mặn, nay thuộc thôn An Hoà, xã Phước Quang, huyện Tuy Phước, Tỉnh Bình Định) . Tôi đi dự Đại Hội Dân Chúa Viêt Nam.
    Điều đầu tiên  chân nhận là sự ân cần chu đáo của các Thầy ĐCV Sài Gòn, cảm giác thân thiện
Như anh em trong nhà, từ khâu tổ chức, đến cung cách phục vụ. Hai mươi sáu lá cờ của 26 Giáo phận được giương cao. Đầu tiên tôi cứ nghĩ tại sao lại dùng 3 màu xanh đỏ vàng, sau lại nghiệm thấy, ba màu ấy chính là ba màu trong Logo Năm Thánh diễn tả Giáo Hội MầuNhiệm- Hiệp Thông-Sứ Vụ. (không biết có đúng ý của người tổ chức không)
    16h.15 xe đưa chúng tôi đến Nhà Thờ Đức Bà Sài Gòn. Lần đầu tôi  tham dự thánh lễ tại Nhà Thờ Đức Bà vào năm 1974, Thánh lễ truyền chức Gm cho ĐC PhaoLô Huỳnh Đông Các. Giờ trở lại trong cung cách khác, từng hàng dài các Soeurs các Thầy, các em thiếu nhi và giáo dân đứng dàn chào
     Thật xúc động, tự cảm thấy mình không xứng đáng để lãnh nhận hồng ân quá lớn này, chắc chắn không phải chỉ đón chào những con người cho bằng đón chào một biến cố trọng đại của Giáo Hôi VN. Một chút suy tư kéo vào tôi trong suốt thánh lễ khai mạc, hình ảnh Giáo Hội hôm nay có được là nhờ biết bao thế hệ Các Thánh Tử Đạo đã can đảm không bước qua Thập Giá để tuyên xưng niềm tin của mình. Lấy máu đào để nuôi dưỡng đức tin cho con cháu, biết bao thế hệ Giám Mục, Linh Mục, Tu Sĩ nam nữ, Giáo dân đã chịu biết bao khổ hình, mất mát, thua thiệt, nhất là những cộng đoàn ở vùng sâu vùng xa, thấp cổ bé miệng… khó khăn vật chất, điều kiện sống, nhất là tinh thần… tôi chợt nhớ về người Anh LM. 18 năm trên vùng cao, đi cày, làm ruộng làm che mía, đi đánh lưới, cư ngụ trong căn nhà nếu bây giờ còn, sẽ thuộc diện xoá nhà tạm! biết bao bất an về tinh thần để chỉ có một chuyện giữ cho Giáo Hội có mặt ở trần gian, dẫu biết rằng bên cạnh Thánh Thần Chúa luôn làm việc can thiệp để bảo vệ Giáo hội. Giữa bao hào nhoáng những ánh đèn flash bật chớp những camera, đèn chiếu… phương tiện âm thanh ánh sáng tân kỳ… tôi chợt nhớ đến bao LM suốt đời chỉ có ngọn đèn dầu leo lét, để sinh hoạt dọn bài giảng… bao nhiêu thế hệ giáo dân lội bộ hàng chục cây số với cây đuốc lá dừa trên tay leo những con đường dốc đá để đựơc đến nhà thờ học giáo lý, tham dự Thánh lễ, ngày xưa còn bé tôi đã sống như thế trên quê hương được đón nhận Tin Mừng từ năm 1625. Quê hương bị bách hại khốc liệt trong biến cố Văn Thân, đến nỗi quả chuông nhà thờ có ghi chữ La Tinh có nghĩa (khi đi 3000 lúc về 800) hơn 2000 tín hữu đã bị giết chết trên cánh đồng Phú Trăng . Đó chính là giáo xứ Gia Hựu thuộc giáo phận Qui nhơn của tôi.
    Tôi tham dự ĐHDC bằng cả con tim và khối óc nhỏ bé để phân tích, múc lấy những ân huệ ngàn đời chỉ có một:
- Nếm trải mầu nhiệm hiệp thông của Giáo Hội không những qua những bài học thần học xúc tích trong những bài tham luận, trong những trao đổi , nhưng bằng giờ phút kinh nguyện, thánh lễ,những con người bằng xương bằng thịt gặp gỡ , cùng sinh hoạt, cùng thiết tha với Giáo Hội 
- Trong sứ điệp cuối Đại Hội, điểm nhấn Giáo Hội như một gia đình gợi mở cho tôi ít nhiều suy tư .Ngoài tình cảm tự nhiên, hiệp thông niềm tin, trách nhiệm…tôi còn có Sự Gắn Bó Máu Thịt  cùng chung thân thể ,mà không có quan hệ máu thịt sao được. tôi vẫn thấy đau đáu khi có ai đó xúc phạm đến Giáo Hội , khi có ai đó thản nhiên bước qua thập giá Đức Kitô bất cứ vì lý do gì. Đừng xúc phạm đến máu và nước từ cạnh sườn Chúa chảy ravà Thần khí Chúa, đừng xúc phạm đến máu và nước mắt của bao thế hệ tiền nhân đã hy sinh gian khổ , chịu chết, tù đày, bao cảnh lầm than
- Hãy gìn giữ và loan truyền Tin Mừng của Chúa đó là mệnh lệnh của con tim và khối óc,viết tiếp bài tình ca các tiền nhân chưa viết trọn (Love for love, life for life) Lời của Á Thánh Anrê Phú yên, quê hương tôi đang sống
 Ghi tiếp tâm tình bằng những vần thơ mộc mạc :

        Hàng cây râm mát
Chiều thương nhớ trên con đường râm mát
Hàng cây vươn cao in dấu thời gian.
Bao kỷ niệm đất Sài gòn thuở ấy,
Biết mấy bồi hồi trở lại đường xưa.

Giáo Hội mở ra, anh em gặp gỡ.
Hạnh ngộ muôn đời mới có hôm nay
Tay nắm tay  ta xây nhà Giáo hội.
Qua Thánh thần cho thôi hết âu lo.

Tôi với anh từ khoảng trời xa lạ,
Mà thân thương sao quá đỗi diệu kỳ.
Ánh mắt nụ cười khơi sáng tương lai
Có ai đó nhắn ngày mai trước mặt.

Nhớ nhau hoài trong bóng mát năm xưa



Thứ Bảy, 27 tháng 11, 2010

SỨ ĐIỆP CỦA ĐẠI HỘI DÂN CHÚA VIỆT NAM 2010


1.   Trong Năm Thánh 2010 nhân kỷ niệm 350 năm thiết lập hai địa phận tông tòa đầu tiên và 50 năm thiết lập hàng giáo phẩm Việt Nam, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đã triệu tập Đại hội Dân Chúa, từ ngày 21 đến 25 tháng 11 năm 2010, tại Trung tâm mục vụ Tổng giáo phận Tp. HCM. Hiện diện tại đại hội, có 32 giám mục, 300 đại biểu linh mục, tu sĩ, giáo dân thuộc 26 giáo phận và các dòng tu trên cả nước. Đại hội hân hạnh đón tiếp các vị đại diện đến từ các Giáo hội Canada, Đài Loan, Malaysia, Nhật Bản, Hoa Kỳ, Pháp, Thái Lan, và đại diện các cộng đoàn công giáo Việt Nam hải ngoại.

       Từ khắp mọi miền đất nước quy tụ về đây như anh chị em dưới một mái nhà, đây chính là thời điểm của ân sủng và kinh nghiệm quý báu Chúa ban cho Hội Thánh tại Việt Nam. Xin dâng lời tạ ơn Thiên Chúa về hồng ân cao quý này. Đồng thời, ý thức rằng trong suốt thời gian đại hội, được anh chị em tín hữu công giáo tại Việt Nam cũng như hải ngoại luôn đồng hành trong lời cầu nguyện và qua những ý kiến đóng góp cho đại hội, xin gửi đến mọi người lời cảm ơn chân thành nhất.

2.    Đại hội Dân Chúa được khai mạc trọng thể vào ngày lễ Chúa Kitô Vua vũ trụ, 21-11-2010, tại Vương Cung Thánh Đường Đức Bà Sàigòn với sự tham dự đông đảo của anh chị em tín hữu. Cử hành lễ Chúa Kitô Vua vũ trụ để khai mạc đại hội giúp chúng tôi xác tín hơn vào sứ mạng của Hội Thánh. Chúa Kitô đã thiết lập Nước Thiên Chúa là “vương quốc của sự thật và sự sống, vương quốc thánh thiện và toàn phúc, vương quốc công chính, yêu thương và an bình”[1]. Hội Thánh Chúa Kitô có mặt trong lịch sử nhân loại với sứ mạng loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa trong quyền năng của Thánh Thần. Cũng thế, Hội Thánh Chúa Kitô tại Việt Nam có sứ mạng loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa, tiếp nối sứ mạng yêu thương và phục vụ của Chúa Kitô, góp phần kiến tạo nền văn hóa sự sống và văn minh tình thương trên quê hương đất nước này.

3.   Sứ mạng đó đòi hỏi Hội Thánh phải đổi mới không ngừng để thực sự là Hội Thánh Chúa Kitô giữa lòng quê hương Việt Nam. Chúng tôi xác tín rằng Hội Thánh tại Việt Nam không phát xuất từ sáng kiến và nỗ lực của con người nhưng hoàn toàn phát xuất từ Thiên Chúa, sống nhờ Ngài và hướng tới Ngài[2]. Vì thế, trong mọi hoàn cảnh, điều quan trọng nhất vẫn là củng cố, canh tân, đào sâu mối hiệp thông của mỗi người tín hữu cũng như của mỗi gia đình, mỗi cộng đoàn với Thiên Chúa qua đời sống cầu nguyện, lắng nghe Lời Chúa và cử hành Thánh Thể. Cử hành Thánh Thể phải thực sự trở thành tâm điểm trong đời sống Hội Thánh tại Việt Nam. Để được như thế, cử hành Thánh Thể cần được nối dài bằng cầu nguyện và suy niệm Lời Chúa, đào sâu chân lý đức tin. Ước mong rằng trong những năm sắp tới, Hội Thánh tại Việt Nam sẽ đẩy mạnh việc phổ biến và học hỏi Lời Chúa bằng những phương thế khác nhau, để Lời Chúa thực sự trở thành của ăn nuôi dưỡng tâm hồn, kim chỉ nam và ánh sáng soi dẫn mọi quyết định và chọn lựa của các tín hữu.

4.    Đại hội cũng xác tín rằng để thực sự là Hội Thánh của Chúa Kitô nhập thể và nhập thế, Hội Thánh tại Việt Nam phải nhập thể vào văn hóa và lịch sử của dân tộc mình. Trong hơn 4 thế kỷ hiện diện tại Việt Nam, Hội Thánh đã góp phần không nhỏ vào đời sống và sự phát triển của đất nước. Chính những người công giáo đầu tiên đã tạo ra chữ quốc ngữ mà mọi người Việt Nam hiện đang sử dụng. Các trường công giáo đã đào tạo biết bao nhân tài cho đất nước. Cũng chính người công giáo đã đem những giá trị nhân văn thấm vào đời sống xã hội như tôn trọng sự sống và phẩm giá con người, sự bình đẳng, tình bác ái, tinh thần phục vụ, hi sinh. Tiếp nối công trình của cha ông, Hội Thánh ngày nay cũng phải dấn thân vào việc xây dựng đất nước về mọi mặt : văn hóa xã hội, cũng như kinh tế chính trị, vì ý thức rằng : “ Yêu Tổ quốc, yêu đồng bào, đối với người Công giáo, không những là một tình cảm tự nhiên phải có, mà còn là một đòi hỏi của Phúc âm”[3].  Khi dấn thân xây dựng xã hội trần thế, Hội thánh “ không hề muốn thay thế Chính Quyền, nhưng chỉ mong rằng trong tinh thần đối thoại và hợp tác tôn trọng lẫn nhau, Hội thánh có thể góp phần mình vào đời sống của Đất nước,nhằm phục vụ tất cả mọi người dân ”[4]. Đó cũng là lời chứng cho mọi người thấy vẻ đẹp đích thực của Tin Mừng như Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI nhắn nhủ tất cả chúng ta, giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân : “ Bằng đời sống xây nền trên đức ái, sự liêm chính, việc quý trọng công ích, anh chị em phải chứng tỏ rằng người công giáo tốt cũng là người công dân tốt”[5].

5.    Hội Thánh tại Việt Nam còn phải canh tân chính mình qua nỗ lực xây dựng Hội Thánh như một gia đình, trong đó mọi người hiệp thông với nhau như anh chị em một nhà, bình đẳng với nhau trên nền tảng ơn gọi làm người và làm con Chúa, chia sẻ cùng một sứ mạng và trách nhiệm dù được thể hiện trong những bậc sống và nhiệm vụ khác nhau. Sự hiệp thông này vừa là đòi hỏi vừa là lời chứng cần thiết mà Hội Thánh phải bày tỏ trước mặt mọi người như Chúa Giêsu đã thiết tha cầu nguyện : ”Xin cho họ nên một như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha để họ cũng ở trong Chúng ta. Như vậy, thế gian sẽ tin rằng Cha đã sai Con” (Ga 17,21). Trong những ngày đại hội, chúng tôi cảm nghiệm được bầu khí hiệp thông huynh đệ này khi mọi thành phần Dân Chúa sống chung với nhau như anh chị em trong một gia đình, cùng lắng nghe tiếng Chúa qua cầu nguyện, chia sẻ cho nhau những kinh nghiệm và suy tư về Hội Thánh qua các bài thuyết trình, tham luận và hội thảo, với thao thức xây dựng Hội Thánh như lòng Chúa mong muốn. Sự hiện diện của đại diện các Giáo Hội chị em lại mở rộng hơn nữa chân trời hiệp thông trong Hội Thánh Chúa Kitô. Ước mong bầu khí huynh đệ này được trải rộng và thấm sâu vào đời sống Hội Thánh tại Việt Nam ở mọi cấp độ, trong mỗi gia đình, mỗi giáo xứ, mỗi dòng tu, mỗi giáo phận.

       Để bày tỏ khuôn mặt Hội Thánh như một gia đình, đại hội kêu gọi mọi thành phần Dân Chúa hợp tác chặt chẽ với nhau trong tình hiệp nhất yêu thương. Xin anh chị em giáo dân tích cực tham gia vào đời sống và sứ mạng của Hội Thánh bằng những khả năng chuyên môn Chúa ban cho mình.  Các gia đình công giáo được mời gọi giữ vững và củng cố ơn gọi hôn nhân Kitô giáo, xây dựng gia đình như Hội Thánh tại gia, cái nôi của sự sống, mái ấm của tình thương và ngôi trường đầu tiên đào tạo con người toàn diện. Đối với các bạn trẻ, xin các bạn nhiệt thành tham gia vào những sinh hoạt của Hội Thánh để đem sức sống và sự tươi trẻ cho đời sống Hội Thánh. Gia đình và giáo xứ phải quan tâm đặc biệt đến việc giáo dục các đức tính nhân bản cho thiếu nhi, để sau này trở nên những con người hữu ích cho xã hội và Hội Thánh. Ước mong các tu sĩ thực sự trở nên dấu chỉ và chứng nhân sống động của tình yêu vô điều kiện mà Thiên Chúa dành cho con người, nhất là những người bé mọn trong xã hội. Đại hội nhấn mạnh vai trò của các giám mục và linh mục trong Hội Thánh. Công cuộc canh tân Hội Thánh cần được bắt đầu từ hàng linh mục, vì thế ước mong các giám mục và linh mục Việt Nam không chỉ là người quản trị giỏi nhưng trước hết là người của Chúa và là những mục tử nhân lành, biết gắn bó với Chúa Giêsu trong cầu nguyện để có thể phục vụ cộng đoàn theo gương Thầy chí thánh, biết tôn trọng và phát huy vai trò người giáo dân trong tinh thần đối thoại và cộng tác.

6.     Để thi hành sứ mạng yêu thương và phục vụ của Chúa Kitô trong hoàn cảnh ngày nay, Hội Thánh phải là chất xúc tác của nền văn hóa sự sống và văn minh tình thương trên đất nước Việt Nam. Trong hai thập niên vừa qua, cùng với sự phát triển kinh tế, có nhiều điều đáng lo ngại cho tiền đồ của dân tộc. Nạn phá thai, ly dị, ma túy, mãi dâm, sự gia tăng cách biệt giầu nghèo, tình trạng bất công, bóc lột, tham nhũng, tàn phá môi sinh… tất cả đang có chiều hướng gia tăng và là những dấu hiệu cụ thể của “nền văn hóa sự chết”.  Xác tín rằng Tin Mừng là “men của tự do và tiến bộ, nguồn của tình huynh đệ, của khoan dung và hòa bình”[6], nên hơn ai hết, người công giáo Việt Nam có sứ mạng kiến tạo nền văn hóa sự sống và văn minh tình thương trên đất nước này, đồng thời sẵn sàng đối thoại chân thành và cộng tác lành mạnh với mọi người thiện chí, không phân biệt tôn giáo hay chính kiến, nhằm phục vụ sự phát triển toàn diện của mọi người trong xã hội[7], nhất là những người nghèo khổ và bị bỏ rơi. Trong tinh thần đó, chúng tôi đề nghị Chính quyền Việt Nam mở rộng cánh cửa cho các tôn giáo tham gia vào việc giáo dục học đường và y tế cộng đồng, vì ích lợi của người dân và của cả dân tộc.

7.     Đối chiếu với sứ mạng cao cả đã lãnh nhận từ Chúa Giêsu : “Anh em phải là muối cho đời, ánh sáng cho trần gian” (Mt 5,13.14), chúng tôi nhìn nhận mình còn nhiều lỗi lầm thiếu sót, vì thế khiêm tốn xin Chúa và anh chị em trong cũng như ngoài Hội Thánh tha thứ cho. Hội Thánh cũng nhớ đến biết bao khổ đau, bất công, bách hại đã phải chịu trong suốt chiều dài lịch sử của mình, không phải để nuôi dưỡng oán thù nhưng để tha thứ và cầu nguyện cho những người đã bách hại Hội Thánh, theo gương Chúa Kitô là Đấng đã hoàn tất công trình cứu chuộc trong sự khó nghèo và bị bách hại[8]. Các thánh tử đạo Việt Nam vừa là gương mẫu vừa là động lực thúc đẩy Hội Thánh thi hành sứ mạng yêu thương và phục vụ của Chúa Kitô trên quê hương đất nước mình.

8.    Đại hội Dân Chúa Việt Nam kết thúc nhưng lại mở ra cho những bước chân hi vọng, niềm hi vọng được khơi nguồn và hoàn tất nơi Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Tất cả những ý kiến của đại hội sẽ được đúc kết thành những đề nghị, là chất liệu chính của văn kiện hậu đại hội, nhằm đưa ra những định hướng và kế hoạch mục vụ của Hội Thánh Việt Nam trong những năm sắp tới. Maranatha, lạy Chúa Giêsu, xin ngự đến (Kh 22,20). Đây vừa là lời cầu xin vừa diễn tả niềm khao khát và hi vọng của đại hội. Nhờ lời chuyển cầu của Đức Mẹ La Vang và Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, xin Chúa ngự đến trong tâm hồn mỗi người chúng con và biến đổi chúng con thành môn đệ đích thực của Chúa. Xin Chúa ngự đến trong mỗi gia đình công giáo, để gia đình trở thành cộng đoàn thờ phượng Chúa, hiệp nhất yêu thương nhau và cùng nhau làm chứng cho Tin Mừng Nước Trời. Xin Chúa ngự đến và hiệp nhất tất cả chúng con trong cùng một sứ mạng yêu thương và phục vụ, quyết tâm xây dựng nền văn hóa sự sống và văn minh tình thương, để dung nhan Chúa bừng sáng trên quê hương Việt Nam chúng con. Maranatha, lạy Chúa Giêsu, xin ngự đến.                                           

                                                         Làm tại Trung tâm mục vụ Tổng giáo phận Tp. HCM,

                                                                           Lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam 2010
--------------------------------------------------------------------------------

[1] Kinh Tiền tụng lễ Chúa Kitô Vua.

[2] Xem Bênêđictô XVI, Sứ điệp Ngày Thế Giới Truyền Giáo 2010. Cũng xem Tài Liệu Làm Việc, số 2.

[3] Thư chung 1980 của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam.

[4] Bênêđictô XVI, Huấn từ dành cho Hội Đồng Giám Mục Việt Nam dịp Ad Limina 2009.

[5] Như trên.

[6] Bênêđictô XVI, Sứ điệp Ngày Thế Giới Truyền Giáo 2010.

[7] Bênêđictô XVI, Thông điệp Bác Ái trong Chân Lý, số 4-6.

[8] Hiến chế tín lý về Giáo Hội Ánh Sáng Muôn Dân, số 8.

Thứ Tư, 24 tháng 11, 2010

THAM LUẬN CỦA ĐỨC CHA MATTHÊU TẠI ĐẠI HỘI DÂN CHÚA

Về việc giáo dục lương tâm
trong bối cảnh truyền giáo tại Việt Nam
(TLLV số 26)

 Matthêu Nguyễn Văn Khôi
Giám mục Phó Giáo phận Qui Nhơn


Đặc biệt trong bối cảnh truyền giáo tại Việt Nam hiện nay, việc giáo ‎‎‎‎‎‎dục lương tâm càng trở nên cần thiết và khẩn thiết hơn bao giờ hết, vì xã hội chúng ta đang sống đầy dẫy những cách sống, những chủ trương và khuynh hướng phản đạo đức đang góp phần làm méo mó bộ mặt của lương tâm, dẫn đến sự lu mờ hay đánh mất cảm thức tôn giáo nơi nhiều người.
“Thưa Thầy, tôi phải làm điều gì tốt để được hưởng sự sống đời đời?” (Mt 19,16). Câu hỏi của chàng thanh niên trong Tin Mừng phản ánh một lương tâm đang tìm kiếm điều thiện để được ơn Cứu Độ, qua đó chúng ta có thể thấy mối liên hệ giữa việc giáo dục lương tâm với sứ vụ truyền giáo, vì việc truyền giáo có mục đích dẫn đưa con người đến ơn Cứu Độ. Khi bắt đầu sứ vụ công khai Chúa Giêsu cũng kêu gọi: “Anh em hãy sám hối vì Nước Trời đã gần đến” (Mt 4,17). Sám hối là hành vi của lương tâm, được coi như điều kiện cần thiết để có thể đón nhận Tin Mừng Nước Trời.
Việc giáo dục lương tâm đóng một vai trò quan trọng trong việc truyền giáo, bởi vì việc đón nhận đức tin là một hành vi của lương tâm và tự do tôn giáo cũng là tự do lương tâm. Người ta chỉ đón nhận đức tin sau khi đã xem xét và đánh giá ‎ý nghĩa của việc đón nhận ấy đối với việc thể hiện cuộc sống của mình. Điều đó có nghĩa là một đức tin không phát xuất từ một quyết định của lương tâm thì chỉ là hời hợt hoặc mê tín. Hơn nữa, quyết định của lương tâm nơi một người không chỉ ảnh hưởng đến đời sống tôn giáo của người đó, mà còn ảnh hương đến đời sống tôn giáo và luân lý của người khác, bởi vì khi quyết định sống tốt, người ta sẽ gửi đến cho kẻ khác một thông điệp mời gọi họ cũng quyết định sống tốt.
Công đồng Vaticanô II trong Hiến chế Mục vụ về Giáo hội trong thế giới ngày nay đã dạy: “Lương tâm là tâm điểm sâu kín nhất và là cung thánh của con người, nơi đây con người chỉ hiện diện một mình với Thiên Chúa và tiếng nói của Ngài vang dội trong thâm tâm họ” (MV 16). Do đó với một lương tâm được giáo dục tốt người ta có thể nhận ra tiếng Chúa từ đáy sâu tâm hồn mình, để thực hành điều thiện và tìm kiếm chân lý. Người nào quyết tâm tìm kiếm chân lý sẽ dễ dàng đón nhận đức tin hoặc ít ra cũng bắt đầu trên đường tiến về đức tin. Chính trong ý nghĩa này mà Chúa Giêsu đã nói: “Ai thực hành chân lý thì đến với ánh sáng” (Ga 3,21). Ngược lại, một Kitô hữu sẽ dễ dàng mất đức tin nếu người ấy từ chối hay xao nhãng bổn phận thường xuyên đào tạo lương tâm theo những tiêu chuẩn luân lý của Tin Mừng.
Để có được một lương tâm đúng đắn, người ta phải tìm mọi cách có thể để hiểu biết chân lý. Một thái độ tìm kiếm chân lý khách quan hoàn toàn trái ngược với thái độ chủ quan khép kín trên chính mình, để rồi cuối cùng rơi vào thuyết tương đối luân lý và tôn giáo. Vì thế, con người không thể đạt đến chân lý khách quan nếu không biết đối chiếu với Lời Chúa và giáo huấn của Giáo hội, cũng như đối thoại với kẻ khác và với những kinh nghiệm đạo đức của họ.
Để thực hiện sứ vụ truyền giáo, việc giáo dục lương tâm không chỉ giới hạn nơi các Kitô hữu mà còn phải được thực hiện đối với những người ngoài Kitô giáo, qua những cuộc gặp gỡ và đối thoại chủ thể, liên văn hóa và liên tôn giáo. Chính lương tâm là mẫu số chung, là nơi gặp gỡ dễ dàng nhất giữa những người không cùng tôn giáo. Khởi đi từ nnhững cuộc đối thoại chân thành và thẳng thắn trên căn bản của mẫu số chung ấy, người Kitô hữu có thể từ từ dẫn đưa người khác đến việc nhận biết Thiên Chúa là chân lý và là sự thiện tối thượng, nhất là khi người Kitô hữu xuất hiện trước mắt mọi người như là kẻ luôn sống ngay thẳng và hành động theo tiếng lương tâm, vượt trên mọi cám dỗ và những xu hướng xấu xa  hay lệch lạc của thời đại.
Trong chương III, về sứ vụ số 26, Tài liệu làm việc chỉ nhắc đến “giáo dục lương tâm”  mà không triển khai gì thêm. Thực ra việc giáo dục lương tâm là điều hết sức quan trọng và cần thiết trong việc truyền giáo. Quả thế, việc giáo dục lương tâm dẫn đưa con người đến sự trưởng thành luân lý là một thành phần cốt yếu của sự trưởng thành đức tin, bởi vì có một mối liên hệ chặt chẽ giữa luân lý và đức tin, cũng như giữa luân lý và việc truyền giáo.

VÌ SAO?

Gioakim Nguyễn Vũ Hồng Kha
Giáo xứ Cây Rỏi, Qui Nhơn
Bài đạt giải nhì bộ môn Thơ giải Đặng Đức Tuấn lần I



Cây trụi lá cành khô xơ xác
Một cảnh đời giá lạnh âm u
Hỏi vì sao Chúa chọn cảnh sầu
Mà nhập thân làm người tôi tớ

Sao Chúa chẳng chọn xuân ấm nắng?
Sao Chúa chẳng chọn hạ óng vàng?
Sao Chúa chẳng chọn thu êm ả?
Mà chọn đông lạnh lẽo vô ngần

Chúa chọn đông muốn ta xét lại
Là vì ai Ngài chịu lạnh căm?
Là vì ai Ngài chịu xé lòng?
Là vì ai Ngài chịu xuống thế?

Trong cảnh khuya âm thầm vắng lặng
Tuyết kết hoa giăng trắng núi đồi
Gió ùa đến cùng vui vũ hội
Những cành cây nụ tuyết ôm nhau

Giữa đêm đó, đêm đông rét lạnh
Trong hang đá không chiếu không chăn
Một thơ nhi cất tiếng chào đời
Đánh thức lại mùa xuân đã mất

Sự yên vui cựa mình tỉnh giấc
Hạt hòa bình tách vỏ đâm chồi
Hoa hạnh phúc hương sắc khoe tươi
Cây yêu thương đơm hoa kết quả.

Đấng Giavê giữ trọn lời đã hứa
Một chồi non nhà Đavít vượt lên
Sẽ dẫn đầu chăn dắt đàn chiên
Cứu chúng ta khỏi xiềng tội lỗi.

Thứ Hai, 22 tháng 11, 2010

THƯ MÙA VỌNG 2010 CỦA ĐỨC GIÁM MỤC QUI NHƠN

THƯ ĐỨC GIÁM MỤC GIÁO PHẬN QUI NHƠN
GỞI CÁC LINH MỤC, TU SĨ NAM NỮ, CHỦNG SINH
VÀ ANH CHỊ EM TÍN HỮU TRONG GIA ĐÌNH GIÁO PHẬN QUI NHƠN,
NHÂN DỊP MÙA VỌNG 2010

Anh chị em thân mến,

1. Mùa Vọng, khởi đầu cho một năm phụng vụ mới, đang đến với chúng ta. Giáo Hội mời gọi mỗi người chuẩn bị tâm hồn thật chu đáo để mừng ngày Chúa Giáng Sinh, một ngày lễ hân hoan, tưng bừng nhất được tổ chức khắp nơi trên thế giới. Việc chuẩn bị mừng kỷ niệm Chúa Giáng Sinh lần thứ nhất cũng hướng lòng chúng ta về tương lai với niềm tin và hy vọng Chúa đến trong vinh quang. Vọng là trông mong, chờ đợi. Mỗi ngày đời sống kitô hữu đều là trông chờ Chúa đến, nhưng trong Mùa vọng Giáo Hội muốn mỗi người chúng ta sống tâm tình khát mong mãnh liệt hơn như ngày xưa Dân Chúa mong đợi Đấng Cứu Thế.
2. Nhìn vào xã hội hôm nay, chúng ta dễ nhận ra cuộc sống thay đổi nhanh chóng với nhiều tiến bộ hơn và đời sống vật chất tương đối đầy đủ hơn. Tuy nhiên, bên cạnh đó lại nảy sinh lối sống thực dụng, chạy theo tiền tài, khoái lạc, hưởng thụ ích kỷ và lạm dụng quyền bính dưới nhiều hình thức khác nhau. Sự quan tâm đến người khác, đến lợi ích chung dần dần trở nên hiếm hoi. Sự vô cảm đang trở nên phổ biến trong xã hội. Hơn nữa, nhiều người trong anh chị em đang phải đối diện với bao nỗi nhọc nhằn lo toan cơm áo gạo tiền vì khủng hoảng kinh tế. Nhiều người lại đang mãi tìm kiếm và tích trữ tiền của như một sự bảo đảm nhất cho tương lai đến mức loại trừ sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc sống mình; mọi sự thành công hay thất bại đều được đánh giá bằng sự thu nhập và nghĩ rằng "mọi thứ đều có thể mua bằng tiền hoặc bằng rất nhiều tiền"… Trong bối cảnh xã hội đó, Mùa Vọng đến với chúng ta đầy ý nghĩa vì giúp ta ý thức sự đợi chờ một cuộc sống mới cho những ai có đủ can trường tiến lên về phía trước, vượt qua những giới hạn của cuộc sống tầm thường.
Trước hết, Mùa Vọng nhắc nhở chúng ta rằng hiện tại chỉ là tương đối và tương lai chúng ta là hạnh phúc vĩnh cửu mai sau. Nhiều giá trị đời nầy như tiền bạc, bất động sản, gia đình, khoa học, văn hóa hay danh dự và những chức vụ cao trọng là những điều tốt khi chúng ta tìm kiếm thực hiện theo ý Chúa. Tuy nhiên đó không phải là tuyệt đối và càng không phải là đích điểm để chúng ta đeo đuổi và thực hiện bằng mọi giá và mọi cách. Tất cả mọi sự đời nầy chỉ có thể thấy được giá trị viên mãn của mình khi được đối chiếu với cùng đích tối hậu đời người là hướng về Thiên Chúa. Một khi ý thức được điều đó, chúng ta sẽ sống tự do hơn, chừng mực hơn, xã hội được hạnh phúc hơn.
Sống tâm tình Mùa Vọng trông đợi Chúa đến còn đòi hỏi chúng ta hoán cải từ trong tâm hồn. Sự hoán cải đời sống bắt đầu khi chúng ta biết nhận ra và ăn năn tội lỗi của chính mình đồng thời can đảm, quyết tâm loại trừ đêm tối của tội lỗi và sự ác nơi chính bản thân mình, nơi gia đình, nơi cộng đoàn và xã hội. Cụ thể, Thánh Phaolô dạy «chúng ta hãy loại bỏ những việc làm đen tối và cầm lấy vũ khí của sự sáng để chiến đấu. Chúng ta hãy ăn ở cho đứng đắn như người đang sống giữa ban ngày; không chè chén say sưa, không chơi bời dâm đãng, cũng không cãi cọ ghen tương» (Rm 13, 12-13). Thánh Phaolô đưa ra qui luật sống «đừng để cho sự ác thắng được mình, nhưng hãy lấy sự thiện mà thắng ác» (Rm 12,21)
Sau nữa, sống tâm tình Mùa Vọng không phải là sống chờ đợi trong sự vắng bóng của Thiên Chúa. Con người chỉ thực sự nhận ra Chúa và được đón nhận vào Nước Trời trong ngày sau hết nếu ngay bây giờ họ biết nhận ra Ngài qua từng tha nhân nhất là người nghèo, bệnh tật, đau khổ... Nói khác đi, chúng ta phải biết quan tâm đến mọi người, thực thi bác ái với tất cả, không loại trừ ai, kể cả người chống đối mình… Đó là cách chúng ta dọn đường thiết thực cho Chúa đến trong đời mình.
Nói ngắn gọn, chúng ta trông đợi Chúa đến không phải như người "chờ sung rụng" mà phải như "người lính canh mong trời hừng đông" (Tv 130,6) hay "như tân nương trang điểm để đón tân lang" (Kh 21,2). Đó là sự chờ đợi hết sức tỉnh táo, tích cực và đầy niềm vui. Sống Mùa Vọng là thể hiện niềm tin yêu phó thác vào Thiên Chúa toàn năng và nhân hậu, Đấng đã đến, đang đến và sẽ đến với chúng ta qua Chúa Giêsu Kitô.
3. Đặc biệt năm nay Mùa Vọng được bắt đầu trùng với dịp Đại Hội Dân Chúa của Giáo Hội tại Việt Nam mới kết thúc (25/11/2010) và khơi lên niềm hy vọng tương lai tươi sáng hơn không chỉ cho Giáo Hội mà còn cho đất nước thân yêu của chúng ta. Mỗi người hãy ra sức hy sinh và tha thiết cầu nguyện cho có nhiều người trên quê hương Việt Nam nhận biết Chúa Hài Nhi, Con Một Thiên Chúa, là quà tặng tình yêu cao quý nhất cho con người; Ngài là Đấng Emmanuel, là vị Hoàng Tử Hòa Bình đem lại cho con người bình an và hạnh phúc vĩnh cửu mà không ai trên thế giới nầy có thể làm được.
Cầu chúc mọi người trong gia đình giáo phận sống một Mùa Vọng đầy ý nghĩa và thánh thiện đồng thời được hưởng dồi dào ơn phúc và Bình An của Chúa Hài Nhi.


Chủ Nhật, 21 tháng 11, 2010

NHÀ THỜ ÁNH SÁNG


BTTVHQN sưu tầm và giới thiệu

Nhà thờ Ánh Sáng (Church of The Light) được xây dựng năm 1989, tại thành phố Ibaraki, Osaka, Nhật Bản, do kiến trúc sư lừng Tadao Ando vẻ kiểu. Ông thường dùng triết lý của zen để sáng tạo các cấu trúc của mình, dùng ánh sáng để củng cố sức mạnh tâm linh. Không gian bên trong được định nghĩa bởi ánh sáng, sự tương phản giữa sáng và tối. Ánh sáng đi qua cây thánh giá cắt trên bức tường bằng bêtông ở phía sau bàn thờ, từ dưới nền lên đến trần nhà và từ tường này sang tường kia. Bức tường bêtông thô, dày, không trang trí, tạo cảm giác cách biệt, khổ hạnh ở bên trong nhà thờ. Đây là ngôi nhà nguyện nhỏ, chỉ khoảng 113 mét vuông ...












Thứ Bảy, 20 tháng 11, 2010

ĐI Ô TÔ MỚI NGHE

Trích “Mémorial de Qui Nhon”,
số tháng Năm 1928



Chú Cãi: - Rôma là kinh đô của đạo Công giáo, vậy vua Khải Định muốn qua bển làm chi?
Cháu Thưa: - Là kinh đô Công giáo, mà cũng là chỗ chung cho các nước: như sứ các nước, vua Nhựt Bổn …
Chú Cãi: - Sao Rôma lại ban “mày đay”[1] cho ông Bài[2] là người không ra gì?
Cháu Thưa: - Ông Bài bên tôn giáo thì tốt lắm, mà bên chánh trị thì tôi chưa nghe tiếng gì. Hễ xấu thì cũng nên chê, bất kỳ lương giáo, những trước phải làm chứng người ta thiệt là xấu đã, đoạn mới nên chê. Không nên nghe người ta đàm tiếu, mà hùa tập nói theo …
Chú Cãi: - Đạo Công giáo tốt, sao có nhiều người xấu?
Cháu Thưa: - Sự xấu là ở tại người, chẳng phải tại đạo, đạo vốn tốt luôn chẳng hề xấu. Ví dụ: một nhà cha mẹ tốt, mà con cái cũng có đứa xấu; một cây sanh nhiều trái tốt mà cũng có trái xấu, đạo Phật thấy gọi tốt mà những người giữ có tốt hết không … những người đạo Công giáo dầu có xấu, thì cũng nhờ đạo Công giáo mà sửa mình lại được, nhờ đạo Công giáo thì người ta được giữ trọn luân lý và trật tự.
 Chú Cãi: - Vậy khi đạo Công giáo chưa có trong nước Việt Nam, thì chẳng là dân Việt Nam không giữ luân lý trật tự sao?
Cháu Thưa: - Hễ đâu có tín ngưỡng, thì đó có thể giữ luân lý trật tự, nhưng phải phân biệt giữ trọn hay là không, rồi …
Chú Cãi: - Đạo Công giáo là đạo ngoại quốc giữ làm chi, Đạo ông bà trong nước mình có đã lâu, sao mà bỏ đi?
Cháu Thưa: - Đạo Công giáo không phải là đạo ngoại quốc, bèn là đạo chung cho mọi người, coi tiếng mình kêu là “công”thì hiểu. Kìa coi các nước thế gian nước nào cũng có đạo Công giáo; còn đạo ông bà chẳng phải là đạo đâu, bèn là sự hiếu mà thôi, mà sự hiếu ông bà thì đạo Công giáo giữ kỹ lắm …
Chú Cãi: Đạo Công giáo là đạo thật, thì giảng giải cho người ta hiểu đặng theo, sao ra như lấy quyền thế mà ép cùng lấy của mà dụ làm chi.
Cháu Thưa: - Đạo Công giáo không lấy quyền thế mà ép ai, vì đạo Công giáo không dính vô chánh trị, kìa coi đời Minh Mạng, Tự Đức, quyền thế đâu? Bây giờ đây bên Chệt, bên Nhựt Bổn quyền thế đâu, các nước khác …
Còn của cải cho là của bố thí cho kẻ nghèo, chớ có cho kẻ giàu đâu; kẻ nghèo nàn khốn khó, dầu không tùng giáo cũng cho.


[1] Médaille: huy chương
[2] Phước Môn Quận Công Nguyễn Hữu Bài (1863-1935)

Thứ Năm, 18 tháng 11, 2010

NƯỚC MẶN, CẢNG THỊ VÀ TRUNG TÂM TRUYỀN GIÁO

 Lm. Gioan Võ Đình Đệ

1. THIÊN NHIÊN MỘT VÙNG ĐẤT :

“Mãn vui Hương Thủy Ngự Bình,
Ai vô Bình Định với mình thì vô
Chẳng lịch bằng kinh đô,
Bình Định không đồng khô cỏ cháy.
Năm dòng sông chảy,
Sáu dãy non cao,
Biển Đông sóng vỗ dạt dào,
Tháp xưa làm bút ghi tiếng anh hào vào mây xanh.”
Những lời mộc mạc ấy của người học trò x‘nẫu’ ngỏ lời với người học trò sông Hương núi Ngự đã giới thiệu được khái quát thủy thổ của tỉnh Bình Định. Tỉnh Bình Định có bờ biển dài trên 100 km. Từ Nam ra Bắc có nhiều dòng sông lớn nhỏ với dòng nước trong xanh ngoằn ngoèo uốn lượn trong đất Bình Định  trước khi ra biển cả hòa mình với đại dương. Năm dòng sông lớn cắt ngang địa hình Bình Định theo hướng Tây – Đông : Sông Hà Thanh, Sông Côn, Sông La Tinh, Sông Lại Giang, Sông Tam Quan.  Năm dòng sông nầy trước khi chảy ra biển quần tụ thành những đầm vịnh, cửa biển, tạo điều kiện thuận lợi cho việc giao lưu từ vùng biển vào đồng bằng, lên miền núi và ngược lại. Sông Hà Thanh và Sông Côn vào đầm Thị Nại ra cửa biển Thị Nại. Sông La Tinh vào đầm Đề Gi [1] ra cửa biển Đề Gi. Sông Lại Giang chảy ra cửa biển An Giũ [2]. Sông Tam Quan chảy ra cửa biển Kim Bồng.
2. CẢNG THỊ NƯỚC MẶN :
Ngoài năm dòng sông chính nầy còn có những phụ lưu song song hoặc giao nhau với các tỉnh lộ, huyện lộ. Dọc theo các điểm bờ sông giao nhau với đường bộ và tại các cửa biển, các cụm dân cư đã được hình thành. Các làng nghề, các cảng thị sông biển cũng sớm ra đời cùng với các cụm cư dân. Trong số các cảng thị được hình thành tại Bình Định, Nước Mặn là một cảng thị sầm uất được hình thành bên bờ sông Hà Bạc, một chi nhánh của sông Côn.
Cha Borri, một trong các thừa sai Dòng Tên đầu tiên đến Nước Mặn đã viết : “ Chúng tôi leo lên lưng voi ngay để cùng đoàn tuỳ tùng đi tới Nước Mặn, một địa điểm dài chừng hai dặm và rộng tới một dặm rưỡi ” [3].  Cha Borri không nói đến cảnh buôn bán ở Nước Mặn nhưng đã cho thấy sự rộng lớn của cảng thị nầy.
Vào thế kỷ XVIII, Pierre Poivre đã đến Đàng Trong và viết trong hồi ký của mình : "Tại tỉnh Qui Nhơn có một thương cảng khác gọi là Nước Mặn là một cảng tốt, an toàn được thương nhân lui tới nhiều nhưng kém hơn Faifo, lại không thuận tiện vì quá xa kinh thành mà các thuyền trưởng thì nhất thiết phải đi đến kinh thành nhiều lần và phải đi ròng rã 6 ngày đường"  [4].
Sách Đại Nam Nhất Thống Chí, tỉnh Bình Định, bản chép thời Tự Đức, mục thị tập có ghi tên 118 chợ lớn nhỏ trong toàn tỉnh Bình Định nhưng không thấy có Nước Mặn dù chỉ là một chợ nhỏ [5]. Như thế, bước sang thế kỷ XIX, cảng thị Nước Mặn vang bóng một thời đã suy tàn, các thương nhân đến các nơi khác hoặc về Qui Nhơn buôn bán, tạo tiền đề phát triển cho thành phố Qui Nhơn ngày nay [6].
Cho đến nay việc khảo sát cảng thị Nước Mặn chưa được đi sâu. Vào tháng 4 năm 2006, Bảo tàng tổng hợp Bình Định đã tổ chức khảo sát nhưng không quy mô.
 “Hố khảo sát chỉ có diện tích 6m2, lại mới đào khoảng 50cm, nhưng các nhà khoa học đã tìm thấy hàng vài trăm mảnh gốm sứ các loại: gốm Gò Sành (gốm Chăm thế kỷ XIV-XV), gốm Chu Đậu (Việt Nam, thế kỷ), Nhật Bản, Trung Quốc (thế kỷ XVII), thậm chí cả gốm vùng Trung Cận Đông, gốm Thái Lan. Nhiều nhất vẫn là gốm Chăm, Trung Quốc và Nhật Bản. Gốm Trung Quốc và Nhật Bản cùng mang màu xanh trắng, nhưng có thể phân biệt khá rõ về sắc độ và sự tinh xảo. Có mặt tại điểm khảo sát, TS Roxana M.Brown (một chuyên gia về gốm Đông Nam Á, hiện là Giám đốc Bảo tàng Gốm Đông Nam Á thuộc Đại học Bang Kok - Thái Lan), nhận xét: "Niên đại của các hiện vật gốm Trung Quốc và Nhật Bản nằm khoảng thời gian từ 1620 đến 1680".
Còn Tiến sĩ  Đinh Bá Hòa - Phó Giám đốc Bảo tàng Tổng hợp tỉnh, đánh giá: "Sự phong phú các mảnh gốm trên cùng một lớp địa tầng cho thấy sự giao lưu, buôn bán thời kỳ này rất phồn thịnh. Những mảnh gốm Nhật khá nhiều, chứng tỏ các thương gia Nhật đã tìm đến Nước Mặn giao lưu, buôn bán rất nhiều. Những hiện vật này làm sáng tỏ thêm hiểu biết của chúng ta về cảng thị Nước Mặn thuở phồn vinh và cũng chứng tỏ rằng, cảng thị này chỉ tồn tại đến thế kỷ XVII". [7]
Sự ra đời của một cảng thị, sự hưng thịnh, suy vong, lụi tàn đều có những lý do tất yếu của nó. Cảng thị Nước Mặn ngày xưa bao gồm các thôn An Hòa, thôn Lương Quang, xã Phước Quang và thôn Kim Xuyên thuộc xã Phước Hòa, huyện Tuy Phước ngày nay. Trải qua thời gian dài dâu bể và do sự bồi đắp tự nhiên của phù sa, cảng thị ngày càng biến dạng và  suy tàn. 
Vào thế kỷ XVII – XVIII, cửa khẩu đi vào Nước Mặn được gọi là Kẻ Thử [8]. Cửa khẩu nầy dẫn vào phía Bắc đầm Thị Nại, phân biệt với cửa Thị Nại ở phía Nam. Cửa Kẻ Thử đã bị bồi lấp, nối liền  núi Bà ở phía Bắc và núi Đơn ở phía Nam tạo nên một trảng cát dài hơn 8km. Ngày nay tại vùng đất nầy vẫn còn tên gọi chợ Kẻ Thử thuộc thôn Phương Phi, xã Cát Tiến, huyện Phù Cát.
Theo truyền tụng dân gian, vào thời Gia Long, trời nổ sấm, mở cửa Qui Nhơn và lấp cửa Kẻ Thử . Theo bản đồ địa chất Nghĩa Bình , từ  Đề Gi qua núi Bà đến Qui Nhơn có mạch đứt gãy hoạt động từ 500 năm nay, mạch đứt gãy chạy theo hướng Tây Bắc – Đông Nam. Cửa Kẻ Thử nằm ngay trên mặt đứt gãy nầy nên đành chịu sự vùi lấp của nó. Cách nay khoảng hơn 200 năm, mạch đứt gãy nầy có sự kiến tạo đột biến ở phía Nam núi Bà làm cho vùng nầy trồi lên cách bất thường. Cửa Kẻ Thử bị lấp, hoàn thành nhiệm vụ lịch sử của mình.[9]
3. CÁC THỪA SAI  ĐẦU TIÊN ĐẾN NƯỚC MẶN
“ Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo “ ( Mc 16, 15). Vào một ngày trong tháng Bảy năm 1618, Thiên Chúa quan phòng đã đưa các thừa sai Dòng Tên đến Nước Mặn qua sự giúp đỡ của ông Trần Đức Hòa, quan tuần phủ khám lý Qui Nhơn. Cha Christoforo Borri, người trong cuộc, kể lại câu chuyện thuở ban đầu ngày xưa ấy  :
Cha Buzomi, cha De Pina và tôi, chúng tôi bỏ Hội An để đi Quy Nhơn theo quan trấn thủ của tỉnh đó. Suốt cuộc hành trình, ông đối đãi với chúng tôi rất lịch sự và tỏ ra hết sức tử tế. Ông luôn luôn để chúng tôi ở cùng nhà với ông và đối xử với chúng tôi một cách rất đặc biệt. Ông dành một chiếc thuyền để phục dịch riêng cho một mình chúng tôi và các người thông ngôn, không muốn cho chúng tôi để đồ đạc ở đó, vì đã có một thuyền khác dành riêng cho việc này. Chúng tôi trẩy đi suốt mười hai ngày với đầy đủ tiện nghi, sáng chiều đậu bến .”
    “Không ngày nào ông không thân chinh sang thuyền chúng tôi. Ông rất thích trao đổi với chúng tôi, nhất là khi chúng tôi nói về sự cứu rỗi đời đời và về đức tin đạo thánh của chúng tôi. Cứ thế, rồi chúng tôi tới tỉnh Quy Nhơn. Nhưng chúng tôi còn phải đi mấy ngày đường nữa mới về được tới dinh quan trấn thủ. Ông muốn cho chúng tôi đi đường bộ để được thoải mái và vui thú. Thế là ông truyền đưa bảy cỗ voi tới, tất cả đều đã sẵn sàng. Ông còn muốn dành cho chúng tôi  cái danh dự đặc biệt là mỗi người chúng tôi có riêng một cỗ voi, kèm theo một trăm người, một phần đi bộ, một phần đi ngựa. Vì cuộc hành trình này chỉ là để tiêu khiển, nên chúng tôi đi mất tám ngày, tới đâu cũng được tiếp đón và đối xử như một ông hoàng, nhất là ở nhà một bà chị của ông, người ta tiếp chúng tôi rất long trọng trong một bữa tiệc rất linh đình.”
    “ Rồi sau cùng, chúng tôi tới tư dinh. Sau tất cả những cuộc vui và cỗ bàn trong cuộc hành trình, chúng tôi được tiếp đón một cách rất trịnh trọng và đặc biệt thường chỉ dành cho các ông hoàng bà chúa. Tám ngày tiệc tùng liên tiếp và cỗ bàn linh đình, ông còn để chúng tôi ngồi ngai của chúa. Chính ông, bà vợ và con cái ông săn sóc chúng tôi, ăn chung với chúng tôi, làm cho cả dinh đều bỡ ngỡ. Ai cũng đồng thanh quả quyết rằng người ta chỉ dành những danh dự này cho bản thân các chúa mà thôi. Đó là cơ hội cho mấy người nói và đồn thổi khắp xứ này rằng chúng tôi là những bậc đế vương tới xứ này để bàn những việc rất quan trọng. Nghe lời đồn đó, quan trấn thủ rất lấy làm hài lòng và tuyên bố trong cuộc họp chung các quan trong phủ rằng: thật ra các cha là con vua con chúa, tức là các thiên sứ đến những vùng đất này, không phải vì thiếu thốn hay cần thiết thứ gì, vì ở nước các cha không thiếu gì, trái lại, mọi của cải đều dư dật, nhưng chỉ vì các cha hăm hở sốt sắng cứu vớt các linh hồn.”
   “ Tám ngày qua đi, chúng tôi cho ông biết là chúng tôi thích ở trong thành để dễ bề rao giảng Phúc âm hơn, còn nếu ở trong tư dinh thì không dễ dàng cho công việc chúng tôi, vì ở xa tỉnh chừng một dặm rưỡi, trong miền thôn quê, theo kiểu ở đây. Quan trấn đã vui lòng giữ chúng tôi ở lại với ông vì rất quý chuộng chúng tôi, và ông đã buồn phiền khi phải xa chúng tôi: thế nhưng vì trọng công ích hơn tư lợi nên ông nghe theo điều chúng tôi sở nguyện và tức khắc truyền cho người ta chọn cho chúng tôi một địa điểm rất tiện để làm nhà cho chúng tôi ở, trong vùng gọi là Nước Mặn. Ông còn thêm, trong tư dinh của ông có tới hơn một trăm nhà, chúng tôi có thể chọn một nhà nào xứng đáng nhất để làm nhà thờ và chúng tôi cứ cho ông biết thì tức khắc ông sẽ định liệu cho đủ sự cần thiết. Chúng tôi khiêm tốn cảm tạ ông về tất cả những ơn huệ ông đã ban cho chúng tôi trong cuộc hành trình và những việc ông vẫn còn tiếp tục làm cho chúng tôi, và sau khi từ biệt, chúng tôi leo lên lưng voi ngay để cùng đoàn tuỳ tùng đi tới Nước Mặn, một địa điểm dài chừng hai dặm và rộng tới một dặm rưỡi.”
“ Ở đây chúng tôi cũng được tiếp đãi với tất cả sự sang trọng, quan trấn đã truyền phải dành cho chúng tôi. Nhưng vì không chịu được vắng mặt lâu hơn, ngay ngày hôm sau, ông thân hành đến thăm chúng tôi và kiểm tra xem người ta có sửa soạn nhà chúng tôi tươm tất và thuận tiện không. Ông còn nói với chúng tôi rằng chúng tôi là người ngoại quốc không có nhiều tiền bạc, không có nhiều của cải, không có đủ sự cần dùng, nên ông nhận cung cấp cho chúng tôi mọi sự cần thiết. Thế là ông truyền mỗi tháng người ta đem đến cho chúng tôi một món tiền khá lớn và mỗi ngày người ta đưa tới nào là thịt thà, cá mú, thóc gạo, không phải chỉ đủ cho chúng tôi mà còn cho các người thông ngôn và người làm nữa. Không chỉ có thế, ngày nào ông cũng gửi cho chúng tôi quà bánh, rất đầy đủ, không kể các đồ vật khác để bồi dưỡng chúng tôi một cách hậu hĩ. Để tỏ lòng trọng kính chúng tôi và tạo uy tín cho chúng tôi trước mọi người, một ngày nọ, ông mở một phiên tòa ngay trong sân nhà chúng tôi, theo cách thức được thực hiện ở Đàng Trong như chúng tôi đã nói. Trong phiên tòa này, ông phải xử mấy người phạm trọng tội, mỗi người đều được xử theo tính chất của tội phạm. Trong số các phạm nhân có hai người bị xử tử bằng vũ khí và phải chịu hình tên bắn. Nhưng trong khi người ta trói các người này thì chúng tôi can thiệp để xin ân xá cho họ. Ông liền tha ngay và truyền cho cởi dây trói tức thì. Ông tuyên bố lớn tiếng là chưa bao giờ ông ban ân xá này cho một người nào cả. Nhưng vì những vị nhân đức này, ta không thể khước từ được.”
“Rồi quay về phía chúng tôi, ông giục chúng tôi quyết định về nơi chúng tôi thấy thuận tiện để dựng một nhà thờ. Chúng tôi liền chỉ cho ông thấy một địa điểm chúng tôi cho là rất hợp và rất tiện để làm việc đó. Ông chấp thuận ngay, rồi ông trở về tư dinh ở ngoài thành phố. Ba ngày sau, người ta đến cho chúng tôi biết là nhà thờ đã được đem đến. Được tin đó chúng tôi rất vui mừng và sung sướng, chúng tôi ra khỏi nhà, hăm hở tới coi sự lạ lùng này, chúng tôi cũng muốn biết xem nhà thờ có thể đem đến bằng cách nào. Chúng tôi biết là nhà thờ phải được làm bằng ván lắp, theo họa đồ đã vẽ. Chúng tôi cũng được biết là tòa nhà này rất lớn và rất cao, phải được đặt trên những cột cao và lớn. Tức thì chúng tôi phát hiện ra trong cánh đồng một đạo quân trên một nghìn người khuân vác các bộ phận của nhà thờ. Mỗi cột có ba mươi người lực lưỡng và khoẻ mạnh nhất khênh. Còn những người khác thì vác xà, người khênh ván, người khênh nóc, kẻ mang sàn, người khuân cái này kẻ mang cái khác. Tất cả đều trật tự mang đến, mỗi người một bộ phận. Sân nhà chúng tôi chật ních người. Chúng tôi niềm nở đón tiếp họ với niềm hân hoan các bạn có thể nghĩ được là như thế nào. Chỉ có một điều làm cho chúng tôi buồn phiền là trong nhà không có gì để ít ra cho họ ăn qua loa. Đám người rất đông này tuy được quan trấn trả công hậu hĩ nhưng chúng tôi cũng thấy xấu hổ và bẽ mặt nếu để họ ra đi mà không cho họ chút gì lót dạ. Nhưng chúng tôi không phải lo lắng lâu khi thấy mỗi người ngồi trên đồ vật người ta căn dặn phải kỹ càng giữ lấy và khi đã sẵn sàng họ mở khăn gói ra, trong đó có tất cả dụng cụ nhà bếp gồm có nồi, thịt, cơm và cá. Họ nhóm lửa và tự nấu nướng lấy. Không ồn áo. Không xin xỏ gì. khi họ ăn xong thì một người chủ thầu lấy dây đo địa điểm, đo khoảng giữa hai cột, rồi ông cho gọi người đem tới dựng vào chỗ. Sau đó ông gọi tất cả lần lượt khuân các bộ phận khác tới và mỗi người đem lắp xong là ra về ngay. Cứ thế, tất cả đều làm việc trong trật tự không nhầm lẫn. Ai cũng làm đúng cách thức, và tất cả khối lớn lao đó được dựng nội nhật trong một ngày, làm cho chúng tôi rất mực sung sướng. Nhưng hoặc là vì người ta làm quá vội vã, hoặc là vì người lắp đặt không cẩn thận nên ngôi nhà không đứng thẳng lắm, trái lại hơi nghiêng một chút. Người ta kể cho quan trấn biết, thế là ông cho gọi kiến trúc sư tới và truyền cho phải làm lại ngay, nếu không sẽ bị cắt gân chân và phải gọi tất cả ngần ấy thợ trở lại để làm cho xong. Kiến trúc sư tuân lệnh và cho dỡ hết, rồi với tất cả khéo léo và thận trọng hơn, ông cho làm lại thật đúng và trong không bao lâu công việc đã hoàn thành.”
“Để biết rõ về quan trấn đạo hạnh đã tận tâm lo việc của chúng tôi và rất quý trọng công việc đó, thì tôi sẽ kể một việc rất đặc biệt để kết thúc chương này. Số là có những làn gió Nam rất nồng nực thường nổi lên và thổi liên tục vào các tháng sáu, bảy và tám gây nên một sức nóng bức lạ lùng làm cháy, làm khô héo và thiêu huỷ nhà cửa vì chỉ làm bằng gỗ. Do đó chỉ một tia lửa nhỏ vì vô ý hay do cách nào khác rơi vào thì cũng có thể làm lửa bốc lên ngay lập tức như châm diêm đốt vậy. Vì thế, thường xảy ra nhiều vụ hỏa hoạn lớn ở khắp lãnh thổ trong ba tháng đó. Một khi lửa đã bén vào một nhà thì trong nháy mắt ngọn lửa từ nhà này sẽ lan sang hết các nhà khác, lần lượt thẳng tắp theo hướng gió thổi và biến tất cả thành tro một cách thảm hại. Để tránh nguy cơ này, nhất là tránh cho nhà thờ chúng tôi ở ngay giữa thành phố và cũng để cho người ta biết chúng tôi được quan trên quý trọng đến mức nào, ông ra sắc lệnh bắt tất cả các nhà ở cùng hàng với nhà chúng tôi, theo hướng luồng gió nóng thổi, phải dỡ mái xuống trong hai tháng đó. Và số nhà phải để trống mái đó nhiều đến độ có thể chiếm một khoảng rộng ít là hai dặm Ý. Và ông đã chủ ý ra lệnh như vậy để nếu lửa bén vào một nhà nào trong những nhà ấy thì dễ ngăn cản không cho nó bén sang nhà chúng tôi. Mọi người đều nghiêm chỉnh thi hành vì danh dự và sự trọng kính họ dành cho ông.” [10]
4. TRUNG TÂM  TRUYỀN GIÁO NƯỚC MẶN
Ngày 18-01-1615, các thừa sai Dòng Tên đặt chân lên cửa biển Đà Nẵng, sau đó không lâu, Cư sở (Residentia) Hội An được thành lập. Nước Mặn là Cư sở thứ hai được thành lập vào Tháng 7-1618. Cư sở thứ ba được thành lập tại Thanh Chiêm vào năm 1623. Đây là ba trung tâm truyền giáo được các thừa sai Dòng Tên thiết lập mở màn cho công cuộc loan báo Tin Mừng tại Đàng Trong [11].
Báo cáo thường niên năm 1620, các thừa sai tại Nước Mặn đã rửa tội được 180 người. Các thừa sai thường xuyên ở tại Nước Mặn trong những năm đầu : Cha Francesco Buzomi ( quốc tịch Ý ), Cha Cristoforo Borri ( Ý ), Cha Francisco de Pina ( Bồ ), Tu huynh Antonio Dias ( Bồ Đào Nha ) [12].
Trung tâm truyền giáo Nước mặn được các thừa sai Dòng Tên  phụ trách cho đến khoảng tháng 02 năm 1665. Sau khi các thừa sai Dòng Tên không còn làm việc ở vùng nầy, các thừa sai MEP nối tiếp công việc của các thừa sai Dòng Tên.
Trong chuyến kinh lý mục vụ đầu tiên tại Đàng Trong vào cuối năm 1671 đến đầu năm 1672, Nước Mặn là điểm dừng chân của Đức Cha Lambert de La Motte. Tại Nước Mặn, Đức cha Lambert lâm bệnh, liệt giường suốt 6 tuần lễ, cha Vachet phải ban bí tích xức dầu cho ngài. Ngày 01.11.1671, lễ Các Thánh, Đức cha Lambert rời Nước Mặn, lên đường đi Quảng Ngãi, sau đó đi Hội An.
Vì sự nài nĩ chí tình với những lời lẽ rất cảm động của giáo dân Nước Mặn, trên đường từ Hội An trở về Thái Lan, Đức cha Lambert đã ghé lại Nước Mặn. Đức cha ở đây 08 ngày, thăm viếng, ban các bí tích và ban 06 bài sai cắt đặt các thầy giảng và một số giáo dân đứng đầu một số nhà thờ. Và để cho niềm vui của giáo dân Nước Mặn được trọn vẹn, Đức cha Lambert đặt cha Giuse Trang, linh mục người Việt [13], ở tại Nước mặn, có quyền hạn như một cha sở. Ngoài nhiệm vụ đặc biệt trên, Đức cha còn ban cho cha Giuse quyền cai quản tổng quát toàn vùng (Nước Mặn). Cha Vachet[14] nhận định: “Người thợ đáng kính này là người được vinh dự làm linh mục tiên khởi xứ Đàng Trong. Chắc hẳn, ngài nhận được những hoa quả đầu mùa trong sứ vụ linh mục. Ngài mang trong mình một lòng nhiệt thành cháy bỏng, một sự cẩn thận hiếm có, và một sức làm việc dẻo dai. Lòng bác ái của ngài làm cho ngài vui vẻ chịu đựng mọi khiếm khuyết của dân tộc. Tính hiền hòa của ngài khiến cho mọi người dễ cảm mến ngài. Đức khiêm nhường của ngài làm cho ngài rất khổ cực khi phải chấp nhận chính con người mình. Đức vâng lời của ngài làm ngài phục tùng tuyệt đối các bề trên của ngài ; cho dù nhiều nơi đã tha thiết muốn được ngài làm vị mục tử chăn dắt họ, nhưng ngài không hề bao giờ tỏ ra ước muốn nào khác hơn là được thi hành ý muốn Giám mục của ngài”. [15]
Sau cha Giuse Trang, thời điểm (1683-1709) một mình Cha Ausiès de Fonbone (MEP) ở Nước Mặn phụ trách từ Bình Định đến Phú Yên.
Trong thống kê của Đức Cha Cuénot Thể năm 1850, Bình Định được chia làm 04 Paroeciae. Nước Mặn thuộc Paroecia vocatur Tam Thuộc : Đại An 71 ; Tân Hội 98 ; Nước Mặn 44 ; Xóm Bắc 327 ; Xóm Nam 280 ; Vườn Vông 50 ; Mi Cang 78 ; Gò Thị 750 ; Gò Dài 442 ; Quán Ngỗng 83 ; Kẻ Thử 45 ; Diêm Điền 193 ;  Xóm Quán 244 ; Làng Sông 265 ; Cây Da 128 ; Sông Cát 175 ; Hội Lộc 40.[16]
Nhà ông Võ Cự Anh, nơi được xác định có nền nhà thờ Nước Mặn

Di vật được tìm thấy dưới nền nhà thờ Nước Mặn 
Trải qua thời gian lịch sử khá dài, các cơ sở vật chất của trung tâm truyền giáo Nước Mặn không còn. Nền nhà thờ Nước Mặn ngày nay được xác định tại vườn nhà ông Võ Cự Anh, thôn An Hòa, xã Phước Quang, huyện Tuy Phước. Sau khi được gia đình ông Võ Cự Anh đồng ý, ngày 17 tháng 9 năm 2009, bằng văn thư số 3170/UBND-NC, UBND tỉnh Bình Định chấp thuận cho Tòa Giám Mục Qui Nhơn được xây dựng một hòn non bộ với diện tích 64 m², có dòng chữ kỷ niệm việc các thừa sai Dòng Tên đầu tiên đến lập cơ sở truyền giáo. Ngày 09 tháng 04 năm 2010, Sở Tài Nguyên Môi Trường Bình Định cấp Giấy Chứng Nhận Quyền Sử Dụng Đất cho Tòa Giám Mục. Ngày 01 tháng 11 năm 2010, Sở Xây Dựng Bình Định đã cấp cho Tòa Giám Mục Qui Nhơn Giấy Phép Xây Dựng số 215/GPXD để xây dựng ‘hòn non bộ’ nầy.



[1] Đầm Đề Gi còn gọi là đầm Đạm Thủy hay đầm Nước Ngọt, nằm trong hai huyện Phù Mỹ và huyện Phù cát.
[2] Cửa An Giũ còn gọi là cửa An Dụ hay cửa Tà Phù. Thuộc huyện Hoài Nhơn.
[3] Cristophoro Borri, Xứ Đàng Trong năm 1621, Hồng Nhuệ – Nguyễn Khắc Xuyên và Nguyễn Nghị dịch, nxb. Tp. HCM 1998, tr. 99.
[4] Cordier. Voyage de Pierre Poivre en Cochinchine, description de la Cochinchine, REO, T.III, 1887.
[5] Dịch giả Nguyễn Tạo, Đại Nam Nhất Thống Chí tỉnh Bình Định, Nha Văn Hóa Bộ Quốc Gia Giáo Dục xuất bản năm 1964, tr. 84-92.
[6] Trong tấm bia ở đền Quan Thánh thuộc thành phố Qui Nhơn có ghi một người họ Nguyễn, quê Nước Mặn,  cúng năm quan tiền để xây dựng ngôi đền nầy vào năm 1837.
[7] Viết Thọ – Hoài Thu, Khảo sát cảng thị Nước Mặn, Báo điện tử Bình Định, 8:18’, 28/4/2006.
[8] Cửa Kẻ Thử còn gọi là cửa Cách Thử.
[9] Đỗ Bang – Nguyễn Tấn Hiểu, Lịch sử thành phố Qui Nhơn, nxb Thuận Hóa, 1998, tr. 76-83.
[10] Cristophoro Borri, sdd tr. 95 – 104.
[11] Thời điểm Cư sở Nước Mặn được thành lập, biên thùy phía Nam của Đàng Trong là phủ Phú Yên, được giới hạn tại
    Thạch Bi Sơn ( núi Đá Bia, Đèo Cả ).
[12] Đỗ Quang Chính SJ.,  Dòng Tên Trong Xã Hội Đại Việt, Antôn & Đuốc Sáng, USA  6/2006, tr. 66.
[13] Cha Giuse Trang, nguyên quán Quảng Ngãi,  là một trong hai linh mục Việt nam đầu tiên được Đức cha Lambert truyền chức linh mục vào  ngày 31 tháng 3 năm 1668 tại Thái Lan.
[14] Cha Vachet cha Giuse Trang tháp tùng Đức cha Lambert trong suốt chuyến viếng thăm mục vụ nầy.
[15] Adrien Launay, Histoire de la Mission de Cochinchine 1658-1823,  Paris 2000, Tom I, p. 113-114.
[16] Mission de Qui Nhon, Memorial No. 57, 30 Sept. 1909, P. 152.