Thứ Ba, 31 tháng 7, 2012

NGUYỄN MỘNG GIÁC VÀ NGƯỜI BÌNH ĐỊNH


Thụy Khuê

Võ Phiến có hai bài tùy bút viết về người Bình Định.
Bài thứ nhất tựa đề Anh Bình Định và bài thứ hai, Người Bình Định.
Bài thứ nhất (không ghi ngày) viết về sự"hấp dẫn" của "người anh" Bình Định với "người em" Phú Yên, qua câu ca dao:
"Anh về Bình Định chi lâu,
Chiều chiều em đứng hàng dâu ngó chừng".
Và ông tuyên bố chắc nịch: "Gái Phú Yên không tỏ ra đa tình với một ai khác, chỉ đa tình với trai Bình Định mà thôi".
Ông Võ Phiến là người Bình Định trăm phần trăm và ông đã quả quyết như vậy, thì phải tin thôi, cãi sao được?
Ông giải thích bằng lịch sử, theo lối nói nhũn của ông thì "đó là những suy đoán vu vơ". Theo "những suy đoán vu vơ" ấy, thì dân tộc ta có hai đợt Nam tiến: Đợt thứ nhất, gồm toàn bọn Bắc vô như Đào Duy Từ, Nguyễn Hữu Tấn (gốc Thanh Hoá), Lê Đại Cương, Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ (gốc Nghệ An), v.v..., đợt này kéo dài đến thếkỷ XVI.
Đợt hai, từ khi Nguyễn Hoàng lấy được Phú Yên, biên giới Nam Bắc đã phân chia rõ rệt, bọn Bắc không thể tự tiện kéo vào được nữa, mà chính dân Bình Định kéo xuống phía Nam. Vì vậy mới có sự "khăng khít" giữa người "anh Bình Định" với người "em Phú Yên", kết quả những "anh em" này sinh con đẻ cái, thành "thế hệ thứ nhì", thoát thai câu ca dao:
"Anh về Bình Định thăm cha,
Phú Yên thăm mẹ, Khánh Hoà thăm em."
Vậy là thêm một từng lớp "anh em"đợt nhì, có duyên nợ tiền kiếp! Lập luận của ông Võ Phiến giúp ta hiểu đôi chút về những "succès" của các "người anh" văn nghệ Bình Địnhđối với các người em văn nghệ phái nữ nói chung và các "người em" Phú Yên nói riêng.
Bài thứ hai tựa đề "Người Bình Định" (viết tháng 10/1973), mở đầu ông giới thiệu ngay Nguyễn Mộng Giác, một người cùng quê với ông. Ông Võ Phiến giới thiệu như vậy là đã có chủ đích: Ông coi Nguyễn Mộng Giác như một người Bình Định "tiêu biểu". Sự tiêu biểu này ông không nói ra, nhưng đọc hết bài sẽ thấy. Nên nhớ năm 1973, Nguyễn Mộng Giác mới viết, chưa nổi tiếng. Đến 1974, Nguyễn Mộng Giác mới nổi tiếng vì được giải thưởng của Trung Tâm Văn Bút Việt Nam với truyện dài Đường một chiều.
Như thường lệ, ông Võ thường nói vòng vo tam quốc trước khi đưa ra những nhận xét tinh tế, lạ và đúng, chưa ai nghĩ ra bao giờ, như:
- "Kể từ Bình Định vào Nam, một giọng nói khác, một loạt tiếng nói khác". Ý ông muốn nói: bọn răng, rứa, mô, tê, chừ... rủ nhau vào Nam, đến chân đèo Bình Đê thì bị chặn đứng cả, chẳng tên nào đi lọt.
- Vẫn theo lập luận "vu vơ"của ông: Dân Quảng Nam, Quảng Ngãi (đúng ra là Quảng Nam thôi) lúc nào cũng hăm hăm chỉ chực "nổi lên", "vùng dậy", còn dân Bình Định êm rơ, chẳng tha thiết gì đến chuyện phản kháng phảng khiếc. Và ông gọi đức tínhấy là "thàn hậu"[1]. Lần đầu tiên tôi học được chữ thàn hậu, tiếng này ngoài Bắc không có, trong Nam cũng không.
Tiếp đó, để giải nghiã hai chữ thàn hậubằng thơ, ông trích hai câu thơ Quách Tấn:
Sầu mong theo lệ khôn rơi lệ
Nhớ gửi vào thơ,nghĩ tội thơ
Rồi ông phê rằng: "Nghĩtội thơ!", cái nhân ái đến rụt rè ấy, ở địa phương gọi nó là đức tính "thàn hậu". Con người thàn hậu vốn dè dặt, kín đáo, âm thầm trong sựsầu đau thương nhớ; chính con người ấy mới càng "tội" đa!"[2]
Cuối cùng ông trởvề với Nguyễn Mộng Giác: "Ở Nguyễn Mộng Giác cũng vậy. Ngay từ những thiên truyện ngắn đầu tiên, anh đã có cái phong độ chín chắn, mực thước, có cái kín đáo, âm thầm, anh đã lim lỉm vào những suy nghĩ lo lắng."[3]
Nhận xét về Nguyễn Mộng Giác, ngay từ 1973, trên những bước đầu, quả chỉ Võ Phiến mới tinh tường như vậy.
Bài thư ba, có liên quan đến Bình Định và Nguyễn Mộng Giác là bài Tựa cho tập truyện ngắn Ngựa nản chân bon, ông viết tháng 11, 1983, tại Hoa Kỳ. Bài này không thấy ông in lại.
Tuy là tựa sách, nhưng Võ Phiến lại nói rất kỹ về người Bình Định. Ông triển khai những ý đã có trong bài Người Bình Định, lần này ông viết kỹ hơn, về tính tình, vềgiọng nói Bình Định... Đặc biệt ông trở lại và dừng khá lâu ở hai tiếng thàng hậu[4]:
"Cái cười của Quách tiên sinh[5] có vẻ trẻ thơ chỉvì trông nó lành quá sức lành. Trông cái cười ấy, người ta thấy rõ trước mặt mình một kẻ hoàn toàn vô hại, không có chút mưu chút mẹo nào hết trơn. Một kẻ thàng.
Thàng là chữ Nguyễn Mộng Giác đã dùng trong một bài viết về tôi trên một số Văn đặc biệt[6] (....) Thàng là chữriêng của người Bình Định, và cũng là chữ riêng để mô tả người Bình Định. Thàngcũng nói là thàng hậu; thàng hậu nghiã gần như hiền hậu, nhưng còn đi xa hơn hiền hậu nữa kia, vì nó có khả năng mô tả, hiền hậu thì không. Hiền hậu, thực thà là một đức tình, một nết hay; thàng hậu còn là một vẻngười hiển hiện ra bên ngoài, trông rõ mồm một. Người thàng, thàngtừ tiếng cười giọng nói, nét mặt, thàng đi. Mà người thàng thì trời ơi, trong trí nhớ của tôi, tôi mường tượng mọi người Bình Định đều thànghết: anh Ba, chị Bốn, ông Bảy, bà Năm, cô Tư, cậu Tám vv... Hết thảy, không ai là không thàng. Muôn người như cùng một vẻ, một giọng."[7]
Bất cứ kẻ nào không phải dân Bình Định, chưa bao giờ nghe nói đến chữ thàng, mà đọc đượcđoạn này của Võ Phiến, thì hết chối là tôi không biết thàng là gì. Cái sức mạnh trong lối nói "vu vơ" của Võ Phiến là như thế. Cái thàngtrong ông là như thế. Cũng thì là thàng mà thàng của Võ Phiến, chỉ mới "vu vơ" nhưng nó bám, nó buộc, nó riết người ta vào chữ nghiã Bình Định của ông.
Vẫn trong bài Tựa này, còn một câu ngắn, độc giả dễ bỏ qua, nhưng nếu ai chú ý, sẽ thấy nó lạlắm, phải là Võ Phiến mới đủ cao cường để biến các thứ trịnh trọng thành "vu vơ" như thế, ông viết:
"Cũng trong một bài báo Văn nọ, Nguyễn Mộng Giác nói đến những con người trông thì "thàng" nhưng kỳ thực lại "dữ"[8].
Tôi không được đọc bài báo Văn "nọ" của Nguyễn Mộng Giác, nhưng câu mà ông Võ trích thậtđáng kể ở nhiều mặt.
Nếu chữ dữ của họ Nguyễn được hiểu là không lành, thì nó phản ảnh tính chất phản kháng ngầm trong con người Bình Định, kể cả... Võ Phiến và Nguyễn Mộng Giác nữa. Ông Nguyễn viết và ông Võ thấy, cả hai đều tinh tường, ông Võ bâng quơnhắc lại lời ông Nguyễn, nhưng làm lơ như ông Nguyễn nói... người khác.
Còn nếu chữ dữđược hiểu là ác, thì nó cũng lại phản ảnh tính chất của một số người... Bình Định, lịch sử biết nhưng ông Võ không nhắc đến thôi.
Ví dụ, ông Võ Phiến nhìn thấy ở Quách tiên sinh cái cười "lành quá sức lành", ông vô tư nhận xét tiên sinh là một kẻ "hoàn toàn vô hại, không có chút mưu mẹo gì hết trơn".
Nhớ lại hồi tiên sinh kiện Trần Thanh Mại ở Huế năm 1942, vì chuyện dám viết cuốn Hàn Mặc Tửtrước tiên sinh, dám quảng bá thơ Hàn Mặc Tử trước khi tiên sinh kịp in thơHàn, thì quả tiên sinh chẳng có thàng chút nào.
Mà đi trước tiên sinh còn một vị tiền bối nữa, bề thế hơn nhiều, đó là Quang Trung Nguyễn Huệ.Ông này không ai biết mặt ngang mũi dọc ra sao, cũng chẳng biết ông cười, ôngđi, ông đứng có thàng không, người ta chỉ biết, mỗi lần ông ra Bắc là có một kẻ bị xé xác; lần đầu Nguyễn Hữu Chỉnh, lần sau Vũ Văn Nhậm, cách nhau có mấy năm, mà hai tay ấy đâu có phải vừa. Vậy nếu ông Huệ có thàng thì cũng là thàng theo kiểu "trông thì thàng nhưng kỳ thực là dữ". Cái dữ này là dữ thật, chứ không phải chỉ là không lành thôi đâu.
Ai muốn tìm đọc Sông Côn mùa lũ để xem vốc vác ông Huệ thế nào, thì lại thấy ông Huệ có bề giống ông Giác, nghiã là ôn tồn, hiền lành, nhân hậu, đứng trước phụ nữ còn rụt rè nữa, hoá ra ông Giác chỉ tả cái thàng của ông Huệ.
Tóm lại, ông Võ Phiến khi nói người Bình Định đều thàng cả, là ý ông muốn nói đến những người thân thương của ông, đó là những nhân vật trong tiểu thuyết của ông, những anh Bốn thôi, ông Năm tản... Và khi ông tả nụ cười của Quách tiên sinh, người ta lại thấy hiện ra nụ cười của... chính ông: ông Võ Phiến có nụ cười rấtthàng. Ông Võ Phiến mới đích thực là Người thàng, thàngtừ tiếng cười giọng nói, nét mặt, thàng đi", để nói theo giọng Vũ Bằng ca tụng món ăn Hà Nội, mà ông Vũ lại dật tạm cái giọng này của Thạch Lam.
Tháng 7/1989, Nguyễn Mộng Giác đến Paris để ra mắt tập trường thiên Mùa Biển Động. Lầnđầu tiên độc giả Paris thấy Nguyễn Mộng Giác bằng xương bằng thịt. Lúc đó tập Mùa Biển Động đã gây sóng gió bên Cali, người yêu cũng nhiều mà người ghét cũng lắm.
Dáng dong dỏng cao trên trung bình đối với người Việt, da mặt có những vết rỗ nhỏ, chắc hồi còn bé bị lên sởi, biến chứng. Cười tươi, rất thàng. Nhưng ở con người BìnhĐịnh này, điểm gây chú ý là đôi mắt.
Đôi mắt Nguyễn Mộng Giác, thường trú dưới cặp kính cận và bị cái cười chụp lên hai mí, lấp đi, làm nhỏlại. Phải đợi đến lúc ông không cười, không nói, chăm chú nhìn đối tượng, thì mới thấy ở đó như có gì xuất thần, nó đen nhánh, lòng đen chiếm hơn 80%, nó "nói" tất cả, mặc dù ông không hề mở miệng. Có vài diễn viên thượng thặng -ví dụ như ở Pháp chỉ Simome Signoret- là có khả năng diễn xuất bằng mắt. Nhưng Nguyễn Mộng Giác không hề diễn xuất gì cả, ông cũng không đóng một vai trò nào. Ông sống bằng mắt và ông viết bằng mắt, đơn thuần là thế.
Tôi nhận thấy điều này ngay từ phút đầu giáp mặt đến phút cuối, vĩnh biệt, chiều ngày 4/6/2012, trước khi về Pháp. Ba lần thăm, lần nào cũng thế: nằm trên giường bệnh, Giác đã trút bỏ hết cả ngoại hình, từ thịt da đến xương cốt, tất cả đều đã rã, đã rời, tất cả đã bỏ Giác, đã theo nhau về chín suối trước khi Giác đi. Các tế bào cònđó, nhưng chúng đã chết từ lâu, chúng hiện hữu mà cũng như không. Riêng đôi mắt còn sống, nó nhất quyết ở lại với Giác như con kỳ mã trung thành với chủ, như Tôn Thất Đạm, Tôn Thất Thiệp bảo vệ vua Hàm Nghi. Cặp kính cận cũng đã biến mất, nó không còn che lấp cái nhìn của Giác nữa. Đôi mắt tự do tung hoành trong không gian chật hẹp của căn phòng bệnh viện. Tất cả đều bị tẩy uế, trùng bị giết sạch, người vào thăm phải đeo mặt nạ, đi găng, khoác áo choàng, trừ hai con mắt. Họ và Giác cân bằng, hai bên đồng đẳng, chỉ có mắt đối mắt. Lúcđó mới thấy rõ ánh sáng kỳ dị trong đôi mắt đen như đêm hạ tuần của Giác và tôi bỗng hiểu.
Chính đôi mắt ấy đã "viết" các truyện ngắn và các bộ trường thiên. Giác "sinh hoạt" bằng đôi mắt, đôi mắt sai khiến và đôi mắt dò hỏi. Đôi mắt lưỡng lự,đôi mắt tiến thoái theo đúng thế trận bầy trước mắt. Người ta hay nhắc đến việc Giác tranh luận sôi nổi, tôi cho rằng những tranh luận chỉ để lấp đầy chỗtrống, chúng không có bề thế gì, so với phán quyết im lặng của đôi mắt. Giác "biết hết" nhân tình thế thái qua đôi mắt "thàng" mà "dữ" của anh. Đừng có giấu Giác, vô ích. Giác biết hết. Nhưng chẳng nói ra thôi.
Đôi mắt ấy đã thấu suốt tâm linh những người phụ nữ mà anh gặp và mô tả trong tiểu thuyết, từ tuổi dậy thì đến hồi đứng bóng. Không mấy nhà văn sành tâm lý phụ nữ như anh, ngoài Mai Thảo. Cái màu đen trong lòng mắt anh, lạ lắm, nó đen như mun và trong vắt như pha lê đến độ không nhìn thấy con ngươi, vì thế không ai "tìm" thấy mình trong đó, khiến Giác có đủ phù phép để "áp đảo" đối tượng,đi vào gan ruột kẻ đối diện khiến y không phản ứng kịp thời, nghiã là y không kịp giấu những gì y muốn giấu trước đôi mắt của Giác.
Cái tên cũng tiềnđịnh: Đã mộng còn giác. Giác có lẽ là tình cờ, cha mẹ đặt cho con, bởi lúc lọt lòng đã biết mắt nó thế nào. Mà đặt tên con bao giờ cũng là một ước nguyện. Mong con thông minh thì đặt tên minh, tên mẫn. Mong con trong trắng, thì đặt tên trinh, tên tuyết.
Có những trường hợp nguyện ước bị dội lại, như người tên Lành mà ác.
Có những trường hợp nguyện ước được thực hiện, trong đó có Giác. Cả mộng cũng vậy.
Bởi nếu không biết mộng thì làm sao có thể trở thành nhà văn? Cho nên cái tên tiền định do cha mẹ đặt đã báo trước phận số phận một nhà văn: một người biết mộng từ lúc sinh ra sẽ trở thành nhà văn Mộng Giác.
Con mắt là yếu tố quan trọng nhất trong sáng tác, khiến những người hoàn toàn khác nhau như Cao Bá Quát, Apollinaire, Merleau-Ponty, Bích Khê... đều đặt trọng tâm trên con mắt. Không biết mắt Cao Bá Quát như thế nào, nhưng ta biết mắt Bích Khê. Dù chỉ còn lại một tấm hình duy nhất của Bích Khê, tấm hình chỗ nào cũng in, rõ nhất là hai con mắt, như thủy tinh thể xuất ra từ cuộc đời ngắn ngủi của Khê, gọi ta vềvới vô cùng. Mắt Nguyễn Mộng Giác không "ăn ảnh" như mắt Bích Khê, có nghĩa là vào ảnh, nó bị sai đi, nó dị đi, nó bị đôi kính cận che đi một nửa, không được như bên ngoài. Chỉ khi sắp ra đi, anh không còn đeo kính, anh đem theo cả đôi mắt mun pha lê. Nhưng sản phẩm của đôi mắt để lại, là sựnghiệp văn chương anh, sẽ mãi mãi còn. Giác đi mà rất ở.
Một sự nghiệp dựng trên truyện ngắn và 2 bộ trường thiên: Sông Côn mùa lũ và Mùa biểnđộng. Anh rất tâm đắc với bộ Sông Côn mùa lũ, mà anh thầm cho là bộsách của đời anh. Có lần tôi nói với anh: Mùa biển động mới là tác phẩm của đời anh, Sông Côn mùa lũ, cũng hay, nhưng chưa phải. Anh có ý giận. Từ đó chúng tôi không bao giờ trở lại đề tài này nữa.
Hôm nay anh đi rồi, nói lại chuyện cũ, không phải vì anh đã mất, không thể trả lời được nữa, tôi lợi dụng nói bừa.
Câu chuyện văn học này, tôi không nói với anh, vì anh nghĩ thế nào về tác phẩm của anh là quyền của anh, đại để như cụ Nguyễn Du có cho Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh là tác phẩm chính, hay hơn Kiều, thì chúng tôi cũng mặc kệ cụ. Bởi cụ chẳng có quyền gì trên tác phẩm của mình, điều cụ nghĩ về tác phẩm của mình chỉ đúng với cụ mà thôi, Paul Valéry đã có lần nhận ra như vậy.
Tại sao thế? Jean Paul Sartre giải thích rõ hơn: Bởi vì nhà văn không thể đọc được tác phẩm của mình như một độc giả. Lý do: hắn đã biết rõ từng câu từng chữ của hắn trước khi viết, nên khi đọc lại, hắn mất hẳn tính khách quan, là yếu tố hàng đầu, cần thiết cho một độc giả đích thực. Sở dĩ những người sống trong chế độ toàn trị,không thể "đọc" được sách theo nghiã thông thường, vì họ bị bủa vây bởi những thành kiến do tuyên truyền nhồi sọ, áp đảo lên họ từ gia đình đến họcđường. Tóm lại, muốn "đọc", cũng phải có tự do. Sartre đặt tự do của người viết và người đọc lên cùng một cán cân.
Tác giả, ở một xã hội tự do, có thể viết được, nhưng hắn vẫn không "đọc" được tác phẩm của hắn, vì những gì hắn viết, hắn đã biết trước rồi, cái "gu" của hắn, đã định rồi, tương tự như người sống trong chế độ toàn trị bị nhồi sọ. Vì vậy, biết bao nhiêu người cứ tưởng mình là nhà thơ nhà văn, nhưng sự thực, họchẳng là nhà gì cả, mà có ai dám nói với họ sự thực đâu.
Cái thành kiến của nhà văn đối với tác phẩm của mình, giống như lời một nhân vật trong Đôi bạncủa Nhất Linh: "Vì tôi đã quyết định thế rồi".
Bộ Sông Côn mùa lũ, viết dưới chế độ cộng sản, với chủ đích dùng thời Tây Sơn để nói chuyện ngày nay, theo lời Nguyễn Mộng Giác kể lại với Phạm Phú Minh[9].
Bộ sách này, đối với người đọc không chuyên, là một bộ sách hay.
Nhưng về mặt nghệthuật tiểu thuyết, nó phạm một số quy luật:
Nói chuyện với anh Minh, anh cho biết, khi dự định viết Sông Côn mùa lũ, anh chưa biết dùng ngôn ngữ thời nào, và khi thấy Nguyễn Du viết Kiều bằng ngôn ngữ "thời nay", anh bèn viết theo Nguyễn Du[10].
Thực ra thì Nguyễn Du (1766-1820) không thể dùng ngôn ngữ "thời nay" hiểu theo nghĩa thời của chúng ta, việc ấy đã đành. Nguyễn Du "dịch" (tức là theo sát) tiểu thuyết của Thanh Tâm Tài Nhân, mà Thanh Tâm Tài Nhân là người sống gất gần triều đại Minh Thế Tông (hiệu Gia Tĩnh) (1507-1567), thời truyện Kiều xẩy ra.
Đọc Kiều, chúng ta thấy ngôn ngữ Nguyễn Du, nhưng đồng thời chúng ta thấy cả một thời đại xưa. Vì tất cả những câu thơ như: "Đạm Tiên nàng ấy xưa là ca nhi", "Hài văn lần bước dặm sanh". "Vẫn nghe thơm nức hương lân"."Sinh rằng: giải cấu là duyên". "Hai thân còn dở tiệc hoa chưa về"... tự chúng đã tạo cái không khí "thời trước", nhưng ta chưa biết chắc là thời nào, nhờ có Thanh Tâm Tài Nhân, ta biết rằng,đó là thời không xa với Minh Gia Tĩnh.
Nhưng thỉnh thoảng lại có vài câu rất "hiện đại" như "Vân rằng: Chị cũng nực cười, khéo dư nước mắt khóc người đời xưa". Chắc Nguyễn Mộng Giác dựa vào lối xưng hô này mà anh đoán là Nguyễn Du dùng ngôn ngữ "thời nay" chăng? Không phải.
Vẫn trong hướng theo sát tiểu thuyết của Thanh Tâm Tài Nhân, mà tiếng Tầu chỉ có "ngộ,nị" (tôi, cô), nên Nguyễn Du "dịch" là "chị, em" trong tiếng Việt.
Điều đó chứng tỏ: Ởthời Nguyễn Du, anh chị em trong nhà xưng hô với nhau là chị, em.
Nhưng ta lại còn biết Nguyễn Du là người cực kỳ thận trọng, khi dùng những tiếng chị, emtrong Kiều, ông không thể lấy cách xưng hô của thời ông, để chỉ một thời cách ông hai trăm năm. Vậy chắc chắn là Nguyễn Du đã tham khảo và biết rằng ở thế kỷXVI, tại nước ta, anh em ruột trong nhà đã xưng hô với nhau là chị, em rồi!
Về ngôn ngữ thờiđại Tây Sơn, Hoàng Lê Nhất Thống Chí của Ngô Thì Chí, phản ảnh rất rõ. Về phong tục, y phục, lối sống, văn hoá, của dân tộc ta trong suốt thời đại nhà Lê, trải mấy trăm năm, Phan Huy Chú ghi rất rõ trong Lịch Triều Hiến Chương. Vậy mà khi làm phim về Quang Trung, một đạo diễn bảo không biết thời ấy họ ăn mặc thế nào!
Những vấn đề để xây dựng một không khí cổ, ngoài y phục, cử chỉ, lời nói (trong chỗ thân tình, người xưa có thể nói giống chúng ta) nhưng ngôn ngữ xã hội luôn luôn được trang phục bằng những lớp lang khác của đạo đức, của tôn giáo, của thói quen, của những công thức, chỉ xuất hiện trong thời kỳ lịch sử ấy...
Mở rộng hơn nữa, chúng ta đi tới phần kiến trúc tiểu thuyết. Cái gì xác định một tác phẩm là tiểu thuyết?
Kiến trúc không gian và thời gian là điều quan trọng nhất trong tiểu thuyết. Bahktine gọi đó là Thời-không-gian (Chronotope): Nhà văn phải cấu tạođược Thời gian và Không gian trong tiểu thuyết của mình.
Sông Côn mùa lũ chưa tạo được thời không gian cuối thế kỷ XVIII, ở Việt Nam, dưới thời Tây Sơn. Vì các nhân vật trong truyện sinh hoạt nói cười, cử chỉ, bông đùa, tâm sự, hệt như trong xã hội ngày nay. Nguyễn Huệ nói chuyện với An không khác Ngữ nói chuyện với Diễm trong Mùa Biển Động. Do đó tác dụng xã hội học trong Sông Côn mùa lũ,gần như không có. Mà xã hội là nền tảng đầu tiên và cuối cùng của tiểu thuyết.
Vậy, rút cục tiểu thuyết là gì? Một trong những định nghiã sâu xa và bao trùm nhất, đến từ Bakhtine:
"Tiểu thuyết là sự đa dạng xã hội của ngôn ngữ, đôi khi của những thứ tiếng và những giọng cá nhân. Sự đa dạng này được thực hiện một cách văn chương. Những định đề thiết yếu của tiểu thuyết đòi hỏi ngôn ngữ dân tộc (langue nationale) phải được kết tầng thành những thổ ngữ (dialecte) xã hội khác nhau, thành những kiểu nói riêng của một nhóm người, thành những tiếng lóng, tiếng nhà nghề (jargon), thành ngôn ngữ của những kiểu cách, những lối nói, ngôn ngữ của một thế hệ, của một lớp tuổi tác, của các trường phái, của những kẻ cầm quyền, của những câu lạc bộ hay những mốt thời thượng, thành ngôn ngữ xã hội của "ngày này" (thậm chí của "giờ này"), thành ngôn ngữ của chính trị (mỗi ngày chính trị có một định thức riêng để chỉ định một vấn đề chính xác bằng từvựng và bằng cách nhấn mạnh)[11]; mỗi loại ngôn ngữtrên đây phải được kết tầng bên trong tiểu thuyết, bất cứ lúc nào, khi câu truyện hiện hữu."[12]
Đoạn viết trên đây của Bakhtine, có thể coi là một trong những định nghiã đầy đủ nhất về tiểu thuyết. Nó giải thích một số hiện tượng: có những tác giả, dù tài ba đến đâu, cũng không thể viết tiểu thuyết mà chỉ viết được truyện ngắn. Bởi vì họ không có cái nhìn quán xuyến toàn thể xã hội, họ không đi vào được nhiều nhóm xã hội khác nhau, họ không tìm được các mối liên lạc giữa các nhóm xã hội khác nhau, như trường hợp Nguyễn Tuân hay Nguyễn Huy Thiệp.
Trở về trường hợp Nguyễn Mộng Giác, trong Mùa Biển Động, ông đã nhìn rõ lớp người trung lưu, có học, trong xã hội miền Nam mà người ta thường gọi là "tiểu tưsản thành thị", đặc biệt ở Huế. Nhưng ông hoàn toàn xa lạ với lớp người Bình Định, quê hương ông, nhất là người dân quê. Trong khi Võ Phiến sởhữu từ thể xác đến linh hồn người dân quê Bình Định. Tiểu thuyết và truyện ngắn của Võ Phiến nằm trong thời không gian Bình Định của những người dân quê, thô mạc. Tiểu thuyết và truyện ngắn của Nguyễn Mộng Giác, nằm trong thời không gian Huế và Sài Gòn, thập niên 60-75.
Tập Sông Côn mùa lũ, đối với những độc giả không sành, vẫn là một cuốn tiểu thuyết hay, lôi cuốn, bởi Nguyễn Mộng Giác là một nhà tâm lý tiểu thuyết, ông đã dựng nên những thăng trầm của hai gia đình: giáo Hiến và họ Nguyễn với ba người con tên Nhạc, Lữ và Huệ.
Nhưng ông chưa dựngđược xã hội Việt Nam dưới thời Tây Sơn, chưa dựng được chân dung lịch sử của Nguyễn Huệ, Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ, trong xã hội Việt Nam thời Tây Sơn, với những con người thời ấy, với những cử chỉ, hành động, ngôn từ, của những lớp người xã hội thời ấy... Vì vậy khó có thể nói đến một thời không gian trong tiểu thuyết Sông Côn mùa lũ.
Về Mùa biển động, tôi đã viết khá kỹ, ở đây chỉ xin thêm đôi dòng.
Với đôi mắt tinh tường, cái nhìn thàng hậu (nhân bản) Nguyễn Mộng Giác đã xây dựng lại cuộc đời của nhiều gia đình, nhiều nhân vật trong thế hệ những người đã sống hoặc lớn lên ở trong Nam, thời kỳ chia đôi đất nước. Ông là một tiểu thuyết gia truyền thống, không đi tìm cái mới lạ, ông thể hiện tiểu thuyết như những người đi trước đã làm, như thời Hồ Biểu Chánh, như thời Tự Lực văn đoàn, bằng ngôn ngữcủa thời ông... Là nhân chứng có con mắt bao quát và sâu xa, ông nhìn và viết lại xã hội miền Nam trước 1975, thuật lại biến cố Phật Giáo những năm 60, biến cố Mậu Thân thập niên 70, biến cố 30 tháng tư 1975, thuật lại cuộc di tản, thuật lại cuộc đời tha hương trên đất Mỹ... Chúng tôi đọc ông và thấy thấm thía, đau xót, đôi khi thấy những mảng đời mình. Ông đã thành công. Một thành công lớn, không phải tiểu thuyết gia nào cũng đạt được.
Viết những dòng này, không để tiễn Nguyễn Mộng Giác, bởi đối với nhà văn, ra đi là bước vào văn học sử, không có gì phải tiếc, không có gì phải tiễn. Ông đi, nhưng tác phẩm của ông ở lại. Khi nào chúng tôi còn đọc ông, khi nào đời sau còn đọc ông, ông còn hiện hữu.
Cũng không để"phê bình" ông, mà để chứng minh một điều: Nguyễn Mộng Giác là nhà văn của thực tại, của nhận xét tinh vi những gì xẩy ra trước mắt. Ông không phải là nhà văn của quá khứ, những gì trong quá khứ, qua tay ông, cũng trởthành thực tại. Ông là nhà tâm lý tiểu thuyết của hôm nay. Khi thực tại không còn gì thúc đẩy ông nữa, ông ngừng viết.
Thụy Khuê
Les Issambres ngày 12/7/2012 


________________________________________

[1] Tuỳbút 1, bản năm 1986, Văn Nghệ, trang 138, in là thàn hậu.
[2] Sđd, trang 141.
[3] Sđd, trang 142-143.
[4] Trong bài Tựa này, ông viết là thàng hậu.
[5] Tức Quách Tấn.
[6] Văn sốra ngày 1/8/74, Sài Gòn (Chú thích của Võ Phiến).
[7] Ngựa nản chân bon của Nguyễn Mộng Giác, Người Việt, Cali, tái bản, 1985, trang XIV.
[8] Võ Phiến, bđd, trang XVI.
[9] Phạm Phú Minh, Nói chuyện với Nguyễn Mộng Giác, Diendantheky.net
[10] Phạm Phú Minh, Nói chuyện với Nguyễn Mộng Giác, Diendantheky.net
[11] Ví dụ, ở Việt Nam có cụm từ "diễn biến hoà bình", rất thời danh.
[12] Mikhail Bakhtine, Esthétique et théorie du roman (Mỹ học và lý thuyết tiểu thuyết, bản dịch từ tiếng Nga sang tiếng Pháp của Daria Olivier, Tel Gallimard, 2003, trang 88-89
© Copyright Thụy Khuê 2012

Thứ Hai, 30 tháng 7, 2012

QUI NHƠN SẼ LÀ ĐIỂM HẸN CHO NHỮNG PHÁT MINH



Mô hình Trung Tâm Quốc tế khoa học và giáo dục Qui Nhơn


GS.TS Trần Thanh Vân

SGTT.VN - “Chúng tôi muốn các nhà khoa học quốc tế trình bày những sáng kiến, phát hiện mới nhất của mình tại trung tâm Quốc tế khoa học và giáo dục Quy Nhơn...”, đó là lời nhấn mạnh của GS.TS vật lý nguyên tử người Pháp gốc Việt Trần Thanh Vân (ảnh bên) trong cuộc trao đổi ngắn dành riêng cho phóng viên Sài Gòn Tiếp Thị ngay khi hội thảo khoa học quốc tế về vật lý tại Quy Nhơn (16 – 22.7) vừa khép lại.

Được biết, hội Gặp gỡ Việt Nam do giáo sư làm chủ tịch đang xây dựng trung tâm Quốc tế khoa học và giáo dục tại Quy Nhơn. Giáo sư có thể cho biết vài nét ban đầu về trung tâm này?

Tại Quy Nhơn, hai năm qua chúng tôi đang tiến hành xây dựng trung tâm Quốc tế khoa học và giáo dục trên khu đất rộng 20ha nằm giữa một bãi tắm dài 300m ở phía đông, một rừng dừa ở phía bắc và vách đá ở phía nam. Tổng kinh phí xây dựng trung tâm là 6 triệu USD, từ đóng góp của hội. Tất cả những người trong hội phải làm việc thật nhiều mới có số tiền này. Khi đi vào hoạt động, trung tâm có một hội trường 200 chỗ ngồi, ba hội trường nhỏ, có trên dưới mười phòng làm việc, khách sạn ba sao, 60 phòng ở, có cả bể bơi, bar – càphê và các dịch vụ khác nữa. Nói chung, trung tâm là nơi yên tĩnh, đẹp, rất phù hợp để phát triển ý tưởng, sáng kiến của mọi người. Dự kiến, trung tâm sẽ đi vào hoạt động vào năm 2013.
Khi đi vào hoạt động, ngoài trao đổi khoa học trong mối quan hệ song phương Pháp – Việt, trung tâm còn là nơi lý tưởng cho các nhà khoa học ở khắp các châu lục, trong đó có những nhà bác học nổi tiếng và các nhà nghiên cứu trẻ, các kỹ sư chuyên sâu ở nhiều lĩnh vực gặp gỡ, trao đổi ý tưởng, kinh nghiệm và sự hiểu biết lẫn nhau. Không quá lạc quan, nhưng với uy tín và kinh nghiệm của chúng tôi cũng như sự ủng hộ của lãnh đạo trong nước, chúng tôi tin các nhà khoa học sẽ đến trình bày những phát minh, sáng kiến, phát hiện mới nhất của mình tại trung tâm Quốc tế khoa học và giáo dục Quy Nhơn... Trong hai năm liên tiếp gần đây, chúng tôi đưa các hội thảo về đây là để các nhà khoa học làm quen với vùng đất này, biết nơi đây đang xây dựng có một trung tâm hội thảo quốc tế về khoa học và giáo dục.

Việt Nam có rất nhiều thành phố lớn, vì sao giáo sư và hội Gặp gỡ Việt Nam lại chọn xây dựng trung tâm này ở Quy Nhơn?

Tôi là người Đồng Hới, lớn lên thì phần lớn thời gian học ở Huế. Khi khảo sát xây dựng trung tâm, chúng tôi đã đi bảy thành phố lớn cả nước, xem có ủng hộ dự án này không. Rất mừng là ở đâu cũng ủng hộ, đặc biệt là Huế và Quy Nhơn. Mặc dù lãnh đạo Huế rất thiết tha nhưng điều kiện thời tiết không đảm bảo, nên chúng tôi chọn Quy Nhơn. Lãnh đạo tỉnh Bình Định cũng đặc biệt quan tâm dự án này, ủng hộ hết mình. Hơn nữa, tại đây còn có một trường đại học đã thành lập rất lâu. Chúng tôi muốn giúp trường này nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học và giáo dục. Một lý do nữa là tại Quy Nhơn – Bình Định và miền Trung nói chung, khoa học kỹ thuật chưa phát triển mạnh. Sự phát triển của kinh tế – xã hội luôn gắn kết với phát triển khoa học. Nghĩa là, muốn phát triển kinh tế, thì việc đầu tư phát triển khoa học là rất cần thiết.

Thưa giáo sư, trong tương lai, trung tâm này hoạt động ra sao?

Với 45 năm kinh nghiệm, chúng tôi có mối quan hệ với mạng lưới rộng lớn các nhà khoa học hàng đầu thế giới, trong đó có các nhà bác học từng nhận giải Nobel. Những hội nghị chúng tôi tổ chức từ trước đến nay đã có hàng ngàn nhà khoa học tham gia. Nói cách khác, nhờ uy tín của mình, các nhà khoa học hiện nay rất thiện cảm với chúng tôi và đất nước Việt Nam. Đây là tiềm năng rất lớn khi trung tâm đi vào hoạt động. Bởi khi đó, chúng tôi sẽ kết nối, đưa nhà khoa học các châu lục đến trung tâm để trình bày sáng kiến. Với môi trường khoa học sôi động, Việt Nam sẽ đưa các nhà khoa học đến trao đổi, trình bày ý tưởng của mình. Từ đó, sẽ nâng cao được sự nghiệp phát triển khoa học ở Việt Nam. Chúng tôi nghĩ, nếu làm việc tốt và có lòng tin thì sẽ có động lực lớn để làm, trung tâm sẽ hoạt động chất lượng hơn và trong 10 – 20 năm nữa, đây sẽ là trung tâm khoa học của Đông Nam Á và châu lục.
Điều hiển nhiên là trong những năm đầu hoạt động, có lẽ tôi sẽ có mặt thường xuyên để giúp trung tâm hoạt động tốt. Còn trong tương lai, nó phụ thuộc vào lãnh đạo của Việt Nam và giới khoa học trong nước. Có như vậy, trung tâm mới phát triển mạnh và đóng góp nhiều hơn cho cộng đồng. Tôi xin nhấn mạnh, trung tâm này khi hoạt động, không là của riêng ai. Mục đích cuối cùng của nó là thu hút các nhà khoa học về đây giúp Việt Nam phát triển sự nghiệp khoa học, để đóng góp khoa học cho đất nước và cộng đồng.

Giáo sư nhận xét gì về sự phát triển khoa học trong nước?

Tại hội nghị lần này, Việt Nam có ba nhà khoa học tham dự. Đạt trình độ nghe và hiểu các vấn đề trao đổi tại hội nghị là giỏi. Ngay như Ấn Độ, khoa học của họ phát triển mạnh hơn Việt Nam, nhưng chỉ có bốn nhà khoa học tham dự.
Tuy nhiên, dù chưa tường tận nhưng qua theo dõi, tôi cho rằng sự nghiệp khoa học trong nước phát triển chậm. Ngay như các trường đại học, rất ít cá nhân nghiên cứu khoa học. Tại đây, họ chuyên lo cho giáo dục hơn là nghiên cứu...

PHẠM ANH



Chủ Nhật, 29 tháng 7, 2012

KHÔNG, XIN CẢM ƠN!






báo Tuổi Trẻ

Việc UBND tỉnh Phú Yên từ chối công nghệ sử dụng cyanua cực kỳ độc hại trong khai thác vàng của một công ty Trung Quốc là sự quyết liệt cần thiết. Đấy là thông điệp rõ ràng cho thấy rằng, trong lúc chúng ta luôn chào đón đầu tư, thì đồng thời cũng sẵn sàng nói “không” trước những phương cách đầu tư đem lại hậu quả xấu cho môi trường nói riêng và cho sự phát triển, cho an nguy của đất nước nói chung.

Lời từ chối của chính quyền Phú Yên dẫn đến sự ra đi của Công ty Kinh Mậu Chúng Thao không phải là một động thái tiên phong. Luật pháp và các chính sách đầu tư của Việt Nam từ lâu đã luôn rạch ròi giữa chào đón và từ chối. Bộ Kế hoạch - Đầu tư đã khẳng định chủ trương kiên quyết không cấp phép tràn lan cho những dự án có công nghệ lạc hậu, tác động xấu tới môi trường. Trong thực tiễn, nhiều địa phương như Bà Rịa-Vũng Tàu, Bình Dương... đã không ít lần nói “không” với những công nghệ lạc hậu, độc hại từ nước ngoài, dù đấy là những dự án có vốn đầu tư rất lớn.
Tuy nhiên, sự quyết liệt này đã không được duy trì thường xuyên, với mức độ cảnh giác và kiểm soát cao nhất. Thế nên, rất thường xuyên, chúng ta đã phải trả giá rất đắt cho sự lơ đễnh của mình. Xin đơn cử chuyện của Khánh Hòa, với nhiều thôn xóm bị bụi nix (hóa chất độc hại sử dụng trong công nghiệp tàu thủy) tấn công suốt nhiều năm liền, môi trường bị ô nhiễm nặng nề và sức khỏe con người bị tổn hại nghiêm trọng. Ở đây, có thể thấy chúng ta chỉ được hưởng một vài lợi ích trước mắt từ những khoản đầu tư ấy, nhưng lợi bất cập hại. Hậu quả mà chúng ta gánh chịu còn lớn hơn nhiều lợi ích thu được.
Đến đây, tôi chợt nhớ vào tháng 3 năm nay, Úc đã cương quyết ngăn chặn Tập đoàn Huawei của Trung Quốc đấu thầu xây dựng hệ thống mạng băng thông rộng toàn quốc. Chính quyền của Thủ tướng Julia Gillard nói rằng việc cấm cửa là “cần thiết” bởi sự tham gia của Huawei có thể kéo theo những nguy cơ về an ninh quốc gia, liên quan tới gián điệp điện tử. Đối mặt với nguy cơ ấy, người Úc đã cương quyết một cách lịch sự: “Không, xin cảm ơn!”.
Trong kỷ nguyên công nghệ hiện đại, khái niệm công nghệ độc đã trở nên rộng lớn hơn, và vì thế khó nắm bắt hơn; việc nhận mặt chúng đòi hỏi những phương cách tiếp cận mới. Trong trường hợp của người Úc, mức độ “độc hại” của công nghệ không thể được đo đếm bằng những tác động xấu lên môi trường thiên nhiên, lên sức khỏe con người. Nó được đo bằng những nguy cơ tiềm ẩn đối với an ninh quốc gia, chủ quyền đất nước.
Thế nên, nếu như cái lắc đầu của UBND tỉnh Phú Yên là một kinh nghiệm cần phát huy, duy trì, thì lời nói không của người Úc là điều mà chúng ta có thể tham khảo, trong bối cảnh ngay tại Việt Nam, chúng ta cũng đang có những quan ngại về các trang mạng chứa phần mềm nguy hiểm; các thiết bị điện tử, viễn thông có chức năng gián điệp.
“Không, xin cảm ơn!”, nếu được phát ra đúng lúc và hợp lý, sẽ là chiếc khiên bảo vệ chúng ta khỏi những tác nhân độc hại, qua đó duy trì một sự phát triển vững bền.

Đỗ Hùng


Thứ Bảy, 28 tháng 7, 2012

VĂN HÓA THẤP ĐI NHƯNG NGƯỜI HÀ NỘI VẪN RẤT TỰ TIN




Bàn về văn hóa và phong cách sống của người Hà Nội xưa và nay, nhạc sĩ Dương Thụ, một người am hiểu về văn hóa và con người nơi đây, cho rằng dân trí Hà Nội đã thấp đi rất nhiều, văn hóa thấp nhưng người Hà Nội cực kỳ tự tin… 

Dân trí Hà Nội ngày nay không cao như người ta tưởng
Suốt thời niên thiếu sống ở Hà Nội, rồi xa Hà Nội đi nơi khác sinh sống, mỗi lần trở lại, nhạc sĩ Dương Thụ lại cảm nhận rõ hơn sự thay đổi của con người và cuộc sống nơi đây.
Hà Nội xưa, trong kí ức của nhạc sĩ là một Hà Nội không sôi động, không xa hoa nhưng rất lành.
Nhạc sĩ kể: “Cuộc sống Hà Nội bây giờ so với thời tôi còn ở đó khác đi nhiều lắm. Thời tôi, trước 1954, Hà Nội là một Paris thu nhỏ ở Châu Á, đến sau 1954 lại là một Hà Nội khác hoàn toàn mà ta thường gọi là Hà-Nội-Mới, Hà Nội của Cách mạng. Tất cả những gì dính dáng đến ngày xưa đều bị tẩy sạch. Một Hà Nội công nông hóa, nghèo và bình dị được hình thành. Cái cuộc sống ấy có một vẻ đẹp riêng. Không sôi động náo nhiệt, không xa hoa sang trọng, không có vẻ gì như mộtđô thị trung tâm, nó hơi buồn tẻ nhưng được cái rất lành”.
Ông gọi tầng lớp công – nông – binh, người làm chủ Hà Nội thời bấy giờ là người Hà Nội Mới. Họ mang cái vẻ đẹp của xóm nghèo, của lính và của nơi thôn dã về cho đất Hà Thành, đó là cái chất phác, chân thật trong lời ăn tiếng nói, trong cách cư xử, đó là quan niệm sống và bảng giá trị mà họ theo đuổi.
“Người Hà-Nội-Mới” không có tiền nên không hiểu và không coi trọng đồng tiền. Dĩ nhiên cũng không biết tiêu tiền nữa. Tiền không nằm trong bảng giá trị để“Người Hà Nội mới” hướng tới. Những giá trị tinh thần mới là quan trọng và cần thiết. Những năm đầu thập niên 60, Hà Nội rất nghèo nhưng vẫn có dàn nhạc giao hưởng của mình. Nhà Hát Lớn trở thành thánh đường của nghệ thuật dù công chúng của nó là những người “áo vải”. Quán ăn không thu hút bằng hiệu sách. Tôi đã từng nhịn ăn để mua sách, mua tổng phổ nhạc và tôi cũng không phải là một ngoại lệ…”, nhạc sĩ ngậm ngùi nhớ lại.
Còn Hà Nội ngày nay nhạc sĩ gọi là một Hà Nội khác, giàu có hơn, phồn hoa hơn nhưng dân trí thì thấp đi rất nhiều.
Nhạc sĩ chia sẻ: “Bây giờ là một Hà-Nội-Khác. Người làm chủ Hà Nội là những“danh gia vọng tộc đời mới”, những ông chủ mà bạn bè tôi thường đùa là “tư sản đỏ”, rồi dân trung lưu và giới trí thức cán bộ có nguồn gốc công-nông-binh. Họ giàu có hơn cả tầng lớp thượng lưu trong chế độ cũ. Nhà cửa, xe cộ thừa mứa, tiện nghi hiện đại. Ăn chơi xa xỉ, xả láng. Còn lại dân “vỉa hè” nói là chủ cho nó sang thôi, thực ra họ là dân nghèo thành thị đúng nghĩa. Dẫu sao họ cũng là người Hà Nội nhưng vẫn thuộc về một Hà-Nội-Khác. Một Hà Nội như thế, nếu ai đi từ 1954 trở về sẽ không tìm thấy Hà Nội của mình”.
“Dân trí Hà Nội bây giờ không cao như người ta tưởng (nhưng có vẻ người Hà-Nội-Khác không nghĩ nghĩ như thế. Họ tự tin vô cùng, nhất là giới trẻ). Nếu chỉ nhìn những thể hiện bên ngoài thì có vẻ oách lắm. Bạn cứ đến bar Taboo trên Hồ Tây vào quãng 12h đêm thì biết. Đến đây tôi không nghĩ là Hà Nội nữa, mà nhưlà ở bên Tây. Tiếng Anh, âm nhạc, rượu, những gương mặt văn minh biết tiêu tiền triệu cho ít phút giải trí thông thường, những cơ thể có rhythm lắc lư thoải mái… Những con người này mà bạn nêu cái nhận xét kia ra, họ sẽ cười mũi: “Giao hưởng là cái đinh gì” v.v. và nhiều “là cái đinh gì” khác. Chỉ có điều họ thấy bạn “cổ hủ” quá nên không tiện nói ra thôi”, nhạc sĩ nói thêm.

Xã hội nào thì văn hóa ấy
Lý giải cho sự cư xử thiếu văn hóa của người Hà Nội ngày nay, nhạc sĩ Dương Thụ cho rằng: “Xã hội nào thì văn hóa ấy. Hậu quả của xã hội bao cấp là lối sống xin-cho, hậu quả này nặng lắm bởi nó đánh mất lòng tự trọng, đánh mất tính độc lập, đánh mất khát vọng và động lực làm việc do vậy con người hèn đi mà không tự biết. Khi không có lòng tự trọng thì mọi giá trị tốt đẹp sẽ bị tiêu hủy, trước tiên là giá trị văn hóa.
Cứ xem cách một số nhạc sĩ ở thủ đô tố cáo nhau, hạ nhục nhau về chuyện giải thưởng nhà nước thì biết. Giới sĩ còn thế nói chi đến dân thường. Chuyện dễ bị kích động, hay gây gổ, văng tục, chửi bậy, kiêu căng khinh khỉnh với những người cùng nguồn gốc xuất thân nhưng là dân ở quê dân tỉnh lẻ chưa hẳn đã là điều tệ hại nhất. Nói đến văn hóa xuống cấp là ở những chuyện lớn hơn nhiều”.
Những người nông dân, công nhân khi có tiền, giàu lên, chưa đủ văn hóa để chế ngự bản năng thì sẽ cư xử như vậy. Ở đâu sự hưởng thụ vật chất được coi trọng, thì ở đấy những giá trị tinh thần phải nhường bước”, nhạc sĩ nhấn mạnh.
Nhìn ra sự đổi khác của Hà Nội với những biểu hiện thụt lùi về văn hóa, nhưng không lên án, chỉ trích như phần đông ý kiến, nhạc sĩ Dương Thụ có cái nhìn bình tĩnh trước sự đổi khác ấy.
“Thời buổi bây giờ không thể “duy ý chí” được. Việc giữ gìn hay loại bỏ không thể bằng tâm huyết hoặc bằng những ý kiến thông minh mà phụ thuộc vào những cái lớn hơn. Ở tình trạng dân trí và quan trí như hiện nay thì đụng vào việc phát huy nét văn hóa đẹp có khi lại làm hỏng nó. Và đụng vào việc loại bỏ những nét văn hóa lạc hậu có khi lại là chỗ để ai đó kiếm tiền và để nó có đà ngấm ngầm mạnh lên”, nhạc sĩ bày tỏ.
Và ông vẫn tìm được những nét đẹp của Hà Nội để yêu, để nhớ về: “Theo tôi, vẫn còn sót lại những nét đẹp của Hà-Nội-Xưa sang trọng, thanh lịch, của Hà-Nội-Mới rất lành và trong sáng. Chỉ có điều nó không phải là phổ biến mà lẩn khuất ở đâu đó. Văn hóa của một dân tộc, của một cộng đồng giàu truyền thống là một cái không thể nào tiêu diệt. Anh muốn tiêu diệt cũng không được. Sức sống của nó mạnh lắm, nó như con chim phượng hoàng có thể hồi sinh trong đống tro tàn”.
Khi được hỏi về cao kiến để có thể biến Hà Nội trở thành một đô thị có nếp sống văn minh, sạch đẹp nhạc sĩ Dương Thụ cho rằng “Người yêu Hà Nội nhất, có tư cách để trả lời câu hỏi này nhất chính là ông Bí thư Thành ủy và vị Chủ tịch Thành phố Hà Nội”.
“Hà Nội không phải là một địa phương. Hà Nội là thủ đô, là trung tâm văn hóa, kinh tế, chính trị của đất nước. Chính vì vậy cư dân của nó là những con người tinh hoa của đất nước. Hà Nội là của khắp mọi miền, ai cũng nên yêu nên có trách nhiệm với Hà Nội” – nhạc sĩ Dương Thụ.
La Hoàn


Thứ Sáu, 27 tháng 7, 2012

CHÂN PHƯỚC ANRÊ PHÚ YÊN (1625-1644)


Lm. Gioan Võ Đình Đệ
           

I. THÂN THẾ

1. Tên gọi và năm sinh

Tên gọi dân sự của thầy cho đến nay vẫn chưa tìm thấy bút tích nào để lại. Được nhận tên Thánh Anrê khi chịu phép rửa tội. Tên thánh rửa tội Anrê cùng với quê quán là tên gọi của Anrê Phú Yên. Tên gọi Anrê Phú Yên là tên chính thức được Tòa Thánh công nhận.
Căn cứ vào năm thầy tử đạo, năm 1644, Cha Đắc Lộ xác nhận lúc ấy thầy 19 tuổi, chúng ta biết được thầy đã chào đời năm 1625.

          2. Nơi lãnh nhận Bí tích Rửa tội 

          Theo lời cha Đắc Lộ xác nhận: “Đúng 03 năm trước khi chết, mẹ thầy dẫn thầy đến cho tôi, và tôi được hạnh phúc rửa tội cho thầy[1]. Như vậy Anrê Phú Yên được rửa tội năm 1641.
Nơi thầy được rửa tội ở đâu ?
Cũng theo tài liệu của cha Đắc Lộ, Anrê Phú Yên là một trong 90 người được cha Đắc Lộ rửa tội trong dịp tĩnh tâm bốn ngày liền tại nhà nguyện của bà Mađalêna Ngọc Liên trong Dinh Trấn Biên Phú Yên.
Dinh Trấn Biên Phú Yên được chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên thành lập năm 1629 và giao cho con rễ là phó tướng Nguyễn Phúc Vinh trấn giữ. Vợ Nguyễn Phúc Vinh là Ngọc Liên, trưởng nữ của chúa Sãi. Bà được rửa tội năm 1636. Bà lập nhà nguyện tại Dinh Trấn Biên. Đây là nhà nguyện đầu tiên trên đất Phú Yên.

Xác định vị trí Dinh Trấn biên:

Trong “Bản đồ Vương Quốc Annamcủa cha Đắc Lộ, in năm 1651, có vẽ tỉnh “Province de Ranran”. Bắc giáp Quinhin ( Qui Nhơn ), Nam giáp Chiêm thành. Đó chính là tỉnh Phú Yên ngày nay. Trên bản đồ nầy, Phú Yên có ba con sông. Theo các nhà sử học, con sông nhỏ ở phía Bắc là sông Cầu; con sông lớn hơn ở giữa là sông Cái; con sông lớn nhất ở phía Nam là sông Đà Rằng. Thủ phủ của tỉnh được ghi là “Dinh Phoan” tọa lạc bên phía Bắc con sông ở giữa, tức sông Cái, ở chỗ gần cửa biển. Đây chính là Dinh Trấn biên được chúa Sãi lập năm 1629. Do những tác động của thiên nhiên, ngày nay toàn bộ Dinh Trấn Biên nằm dưới nước dòng sông Cái.
Dinh Trấn Biên ngày nay được gọi là Thành Cũ, thuộc thôn Bình Thạnh, xã An Ninh Tây, huyện Tuy An. Tên gọi nầy xuất hiện như để phân biệt với Thành An Thổ được vua Minh Mạng (1820-1840) thành lập vào thế kỷ 19. Thành An Thổ ngày nay thuộc thôn An Thổ, xã An Dân, huyện Tuy An. Về năm thành lập thành An Thổ thì các sử liệu ghi chép khác nhau. Cuốn Phương Đình dư địa chí của Nguyễn Siêu thì ghi là năm 1832; cuốn Đại Nam thực lục chính biên thì ghi là năm 1836; cuốn Đại Nam nhất thống chí thì ghi là năm 1838.

3. Nơi sinh

Thời điểm thầy Anrê Phú Yên chào đời là thời điểm Phú Yên đang còn trong giai đoạn bắt đầu khai phá, khẩn hoang. Lực lượng khẩn hoang nầy là những đoàn di dân từ Thuận Quảng, phía Bắc Phú Yên, như Quảng Bình, Quảng Trị, Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định. Ông cha của thầy Anrê Phú Yên thuộc những người di dân nầy.
Lúc bấy giờ Phú Yên là vùng đất mới được chúa Nguyễn ổn định an ninh chính trị. Tuy nhiên việc khai khẩn đất hoang, lập làng vẫn còn nhiều yếu tố trở ngại, như về an ninh trật tự ở biên giới phía Nam với Chiêm Thành, khí hậu khắc nghiệt, nước độc, chướng khí từ rừng hoang cỏ rậm và ác thú ở miền núi. Do đó chỉ còn vùng đồng bằng ven biển, đặc biệt vùng châu thổ sông Cái, khí hậu hiền hòa, dễ bắt con cua con cá, trồng được lúa nước, cách xa biên giới phía Nam, là vùng “đất vàng” được các di dân ưu tiên chọn lựa định cư. Dinh Trấn Biên cũng được thành lập tại vùng châu thổ nầy. Xét những điều kiện nầy, có thể gia đình của Anrê đã chọn vùng châu thổ sông Cái để định cư. Toàn bộ vùng châu thổ nầy, ngày nay thuộc giáo xứ Mằng Lăng.
Đầu năm 1639, toàn bộ các thừa sai Dòng Tên ở Đàng Trong đã bị chúa Nguyễn trục xuất. Lúc bấy giờ Cha Đắc Lộ đang ở Ma Cao. Cha tận dụng ảnh hưởng của các thương nhân người Bồ đối với chúa Nguyễn để cha được ra vào Đàng Trong tất cả bốn lần. Lần thứ nhất (02/1640 - 8/1640), lần thứ hai (12/1640 - 7/1641), lần thứ ba (01/1642 – 9/1643), lần thứ tư (01/1644 – 03/7/1645). Trong chuyến trở lại Đàng Trong lần thứ hai, cha Đắc Lộ đã tận dụng cơ hội để thăm viếng tín hữu Phú Yên. Nhân dịp nầy cha rửa tội cho Anrê Phú Yên tại nhà nguyện của bà Mađalêna Ngọc Liên trong Dinh Trấn Biên Phú Yên.
Xét hoàn cảnh sự hiện diện của cha Đắc Lộ tại Dinh Trấn Biên lúc nầy, có thể cha chỉ thăm viếng các tín hữu và qui tụ các tân tòng trong phạm vi những làng lân cận Dinh Trấn Biên. Học giả Phạm Đình Khiêm đã viết: “ Xét vì cuộc viếng thăm của giáo sĩ chỉ thâu hẹp trong các làng phụ cận dinh Trấn Biên, mà phương tiện truyền tin và giao thông thời ấy lại rất hạn chế, người ta có lý do để tin rằng những giáo hữu tân tòng kia không phải từ ở nơi xa đến, mà chính là những người ở ngay chỗ trấn lỵ và phụ cận”.[2]
Từ nhận định nầy, Học giả Phạm Đình Khiêm đi đến một nhận định khác: “Như vậy sinh quán của anh hùng Anrê Phú Yên, không đâu khác ngoài các làng Hội Phú và lân cận là Long Uyên, Diêm Điền, Hội Tín, Phú Thọ, Minh Chính… Tại Long Uyên ngày nay có một ngôi nhà thờ nhỏ lợp lá, với một họ đạo non vài trăm nhân danh, gọi là họ “Lò giấy”. Theo lời truyền tụng, đó là họ đạo xưa nhất trong cả miền, đã cống hiến cho Giáo hội mấy chục người tử đạo đời Văn thân. Phải chăng đó chính là làng quê của thầy giảng Anrê ? ”.[3]
Học giả Phạm Đình Khiêm đã đặt vấn đề “Phải chăng (Lò Giấy) đó chính là làng quê của thầy giảng Anrê ? ”. Và vì chỉ là nghi vấn không thể chứng minh được nên ngay sau đó ông khẳng định: “Dầu sao thì tất cả miền này đều thuộc địa sở (họ chính) Mằng Lăng, một địa sở tôn giáo rất quan trọng, gồm 12 họ nhánh, 3.000 giáo hữu, với ngôi nhà thờ nguy nga đẹp đẽ nhất tỉnh. Vậy nếu không định rõ được đích xác làng, thôn nào đã sản xuất vị anh hùng, ít nhất ta cũng được biết chắc chắn Mằng Lăng là “xứ đạo quê hương” (paroisse natale) của người, và đó là một nhận định quan trọng, vì “xứ đạo” (địa sở tôn giáo) là đơn vị căn bản của địa dư Giáo hội”.
Thật ra, Lò Giấy là một giáo họ được thành lập sau năm 1747 và trước năm 1850. Trong thống kê của các thừa sai năm 1747, Phú Yên có 06 nhà thờ và  67 nhà nguyện của các giáo họ liên hệ, trong đó Chợ Mới là nhà thờ chính trong vùng, là trú sở của các thừa sai [4]. Chợ Mới hiện nay là một giáo họ của giáo xứ Mằng Lăng. Trong số 06 nhà thờ và 67 nhà nguyện của thống kê năm 1747 chưa thấy có tên giáo họ Lò Giấy, và ngay cả Mằng Lăng cũng chưa có.   
Trong thống kê năm 1850 của Thánh Giám mục Cuênot Thể, Phú Yên được chia làm hai xứ, xứ phía Bắc và xứ phía Nam. Trong đó, Lò Giấy và Mằng Lăng thuộc xứ phía Bắc. [5]  
Với các chứng cứ trên đây cho thấy việc xác định Lò Giấy là nơi sinh của Anrê Phú Yên là một khẳng định chưa đủ chứng cứ lịch sử. Nói cách khác, không thể xác định Lò Giấy là nơi sinh của Anrê Phú Yên. Do đó, quan điểm của Học giả Phạm Đình Khiêm dễ được chấp nhận: “nếu không định rõ được đích xác làng, thôn nào đã sản xuất vị anh hùng, ít nhất ta cũng được biết chắc chắn Mằng Lăng là “xứ đạo quê hương” (paroisse natale) của người, và đó là một nhận định quan trọng, vì “xứ đạo” (địa sở tôn giáo) là đơn vị căn bản của địa dư Giáo hội”.

4. Nơi tử đạo :

Chân phước Anrê Phú Yên tử đạo tại Gò Xử, Thành Chiêm, Điện Bàn, Quảng Nam. Nay thuộc giáo họ Phước Kiều, giáo xứ Hội An, giáo phận Đà nẵng.

5. Tuyên phong Chân phước :

Thầy giảng Anrê Phú Yên được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tuyên phong Chân phước vào ngày 05 tháng 3 năm 2000.
Sau đó, để bày tỏ tâm tình tạ ơn Chúa cách long trọng và để tôn vinh Chân phước Anrê Phú Yên, vị tử đạo tiên khởi của Hội Thánh Việt Nam, giáo phận Qui Nhơn đã tổ chức ngày hội trại đầu tiên của giảng viên giáo lý giáo phận Qui Nhơn từ ngày 25 đến ngày 26/7/2000 tại giáo xứ Mằng Lăng, quê hương của Chân phước Anrê Phú Yên. Đỉnh điểm của tâm tình tạ ơn là Thánh lễ đồng tế do Đức Cha Phêrô Nguyễn Soạn chủ sự.
Tại Đại Hội Giới Trẻ thế giới lần thứ 17 ở Toronto, Canada, (23-28/7/2002), Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nêu Chân Phước Anrê Phú Yên ở vị trí thứ hai trong số 10 vị thánh trẻ tiêu biểu làm mẫu gương cho cuộc sống.
Tại Hội Nghị thường niên ở Bãi Dâu từ ngày 25 đến ngày 27/3/2008, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đã chính thức chấp thuận chọn ngày làm chứng của Chân Phước Anrê Phú Yên, 26/7, làm Ngày Giảng Viên Giáo Lý Việt Nam.

II. SỰ NGHIỆP

Nói đến Anrê Phú yên, là nói đến một người trẻ 19 xuân xanh, can trường sống chết vì Chúa Giêsu.
Nói đến Anrê Phú Yên, là nói đến một mẫu gương về các kĩ năng sống cho giới trẻ.
Nói đến Anrê Phú Yên là nói đến một mẫu gương phục vụ dân Chúa của các giảng viên giáo lý.
Như thế, nói đến Anrê Phú Yên là nói đến một cuộc đời đã hoàn thành. Chúng ta rút được bài học nào trong con người đã hoàn thành cuộc đời mới có 19 xuân xanh đó không ? 
Cuộc đời hoàn thành đã được sách Khải huyền diễn tả“ CHIỀU DÀI, CHIỀU RỘNG  VÀ CHIỀU CAO ĐỀU BẰNG NHAU ”(Kh 21,16).

1. CHÂN PHƯỚC ANRÊ PHÚ YÊN VỚI CHIỀU DÀI CUỘC ĐỜI :

Mỗi người có thời gian sống ngắn, dài khác nhau. Mỗi người  có những khả năng làm việc khác nhau. Theo chỉ dẫn của dụ ngôn những nén bạc trong Tin mừng ( Mt 25, 14-30 ), mỗi người có trách nhiệm khám phá sứ mạng, khả năng của mình trong suốt chiều dài cuộc sống. Phải làm hết sức mình để thực hiện sứ mạng và những khả năng của mình. Phải hành động như thể Thiên Chúa đã giao cho mình chính công việc nầy, vào lúc nầy. Chiều dài cuộc đời là chuỗi dài các nỗ lực của mỗi người để đạt được hạnh phúc trong suốt chiều dài cuộc đời của mình.
Năm 1642, Anrê Phú Yên khăn gói lên đường với cha Đắc Lộ về Hội An. Tại trường “thầy giảng Hội An” do cha Đắc Lộ thành lập, Anrê được nhập đoàn với 09 người anh ưu tú trong cộng đoàn thầy giảng, Anrê là người em út.
          Ngoài việc luyện tập nhân đức, học giáo lý bằng quốc ngữ, chữ nôm, chữ hán, các thầy giảng còn được học kinh sử cổ điển. Về môn học nầy đã có sẳn một thầy giáo trong cộng đoàn là thầy Inhaxiô, từng là một cựu quan ở Chính Dinh. Cha Đắc Lộ nói về Anrê: “Tôi giao thầy Anrê cho một trong những thầy giảng khác của tôi là Inhaxiô, là người rất khôn ngoan, thông thái để học văn chương Trung Hoa; Anrê học hành có kết quả đến nỗi Inhaxiô phải nói với tôi rằng: Trong tất cả các môn sinh, không một người nào đọ kịp trí tuệ của Anrê, thầy linh lợi thông minh, học đâu hiểu đó” [6].
Nơi trường thầy giảng, Anrê theo đuổi việc tu đức và học vấn nhưng không bỏ qua những việc cần làm để giúp đỡ người khác, như Cha Đắc lộ nhận xét người học trò nhỏ của mình: “Người thầy không khỏe mạnh gì lắm, thế mà việc khó mấy trong nhà, thầy cũng làm luôn, nhiều khi lại làm quá sức mình; thầy quên mình để giúp kẻ khác”.

- Làm hết sức mình, làm cách hoàn hảo nhất những gì có thể làm:

Lễ Chúa Giáng Sinh năm 1643, nhóm thầy giảng đang có mặt tại kinh đô mừng lễ Giáng Sinh ngay trong dinh Tổng Trấn Nguyễn Phúc Khê. Không có linh mục, không có Thánh lễ, Thầy Anrê Phú Yên làm hang đá, một điểm qui tụ tín hữu trong vùng lân cận và chính Tổng Trấn Nguyễn Phúc Khê cùng con cháu và gia nhân đến triều bái, thờ lạy Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người. Cha Đắc Lộ tóm tắt công việc của thầy Anrê trong những tháng ngày làm việc ở vùng truyền giáo này: “Thầy Anrê đặc biệt chăm chỉ đi theo thầy Inhaxiô trong mọi hoạt động vì lòng bác ái, thầy đến tận kinh đô xứ Đàng Trong, ở đó riêng mình thầy làm việc bằng nhiều người khác”. Thầy giảng đạo cho người ngoại giáo, dạy dỗ kẻ tân tòng…, dọn dẹp nhà thờ rất sạch sẽ, trang hoàng nhà thờ trong những ngày lễ lớn, khéo léo đến nỗi làm cho bổn đạo tăng thêm lòng sốt sắng và cả người ngoại giáo cũng phải trọng kính mầu nhiệm của đạo[7].  

2. CHÂN PHƯỚC ANRÊ PHÚ YÊN VỚI CHIỀU RỘNG CUỘC ĐỜI

Chiều rộng cuộc đời là việc mưu cầu hạnh phúc cho người khác.
Cha Đắc Lộ tóm tắt hoa quả về cách đối nhân xử thế của Anrê: “Anrê ở nhà tôi chỉ ít lâu, nhân đức trong linh hồn thầy đã biểu lộ ra ngoài; thầy sống giữa chúng tôi như một vị thánh nhỏ; thầy có tư thái hiền hậu, đức vâng lời mau lẹ, rất kính trọng mọi người, khiến ai ai cũng đều cảm phục”. Sự thông minh và những khả năng của thầy chẳng làm hại chút nào đến đường tu đức của thầy: “Tất cả những lợi điểm đó chẳng làm cho thầy có chút vẻ gì là kiêu ngạo hay tự mãn: Thầy coi mình như kém hết mọi người, và không có gì làm cho thầy bằng lòng hơn là được dịp phục vụ người khác[8].
Quả vậy, Anrê nhỏ con, nhỏ người, ốm yếu, làm những việc nhỏ: Dọn bàn thờ, làm hang đá, chăm sóc bệnh nhân..., nhỏ nhất trong nhóm thầy giảng Đàng Trong, nhỏ tuổi đời, nhỏ tuổi đạo, nhỏ tuổi tu: Sinh năm 1625, rửa tội năm 1641, nhập đoàn thầy giảng năm 1642, khấn trọn năm 1643, tử đạo năm 1644.
Dưới bóng cha Đắc Lộ và một số thầy giảng từng là ông cử, ông quan, thầy Anrê trẻ tuổi, quê mùa, chơn chất không có gì đáng kể. Tuy nhiên, mặt trời chiếu soi ban ngày, vầng trăng soi chiếu ban đêm, sao hôm, sao mai dù leo lét nhưng là một dấu chỉ đường, một ngọn hải đăng trên bầu trời. Có đường quốc lộ, cũng có những con đường làng nhỏ hẹp; có cầu Ngân Sơn với những kỷ thuật cao cho bộ hành Bắc Nam, cũng có cầu Lò Gốm giản đơn hơn cho cư dân và du khách về Mằng Lăng; có giòng sông Cái [9] hữu tình nước trong xanh lững lờ, cũng có những dòng suối nhỏ nên thơ. Ai cũng có gì để cho, ai cũng có gì để đóng góp cho anh chị em, cho Hội Thánh. Trọn tâm, trọn ý, trọn tình từ trong công việc nhỏ, đơn điệu, âm thầm,  đó là đạo lý của Tin Mừng: “Khá lắm, hỡi người đầy tớ tài giỏi và trung thành! Trong việc nhỏ mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ đặt anh lên coi việc lớn, hãy vào hưởng niềm vui của chủ anh” (Mt 25, 21).
Ngày 25 tháng 7 năm 1644, ông Nghè Bộ cho lính đến trụ sở Dòng Tên tại Hội An tìm bắt thầy Inhaxiô theo lệnh bà Tống Thị. Hôm ấy Cha Đắc Lộ và thầy Inhaxiô cùng với 04 thầy khác đang đi làm việc tông đồ, thầy Anrê Phú Yên ở nhà săn sóc 04 thầy trong nhóm đang bị bệnh. Toán lính không tìm thấy thầy Inhaxiô, Thầy Anrê bạo dạn nói với toán lính: “Nếu các ông muốn bắt thầy Inhaxiô thì vô ích vì Inhaxiô không có ở đây. Còn muốn bắt tôi thì rất dễ dàng, tôi là tín hữu, hơn nữa là thầy giảng. Tôi có cả hai tội mà các ông khép cho thầy Inhaxiô để bắt thầy ấy. Nếu thầy ấy có tội thì tôi làm sao vô tội được[10].
Toán lính không bỏ lỡ cơ hội, họ bắt và trói thầy Anrê như chiên hiền lành không chống cự. Sau đó toán lính xúc phạm đến các ảnh thánh, thầy khuyên can họ: “Nếu các ông quyết định lấy những ảnh thánh ấy, thì cứ để tôi sắp xếp cẩn thận cho, càng dễ mang đi”. Thầy Anrê được cởi trói để làm điều thầy nói, sau đó thầy đưa tay cho lính trói thầy trở lại. Đã làm những điều ấy nhưng lính chưa thỏa mãn, lính lôi một thầy đang đau nằm trên giường, định bắt giải đi. Thầy Anrê dịu ngọt thuyết phục, họ để cho thầy ấy được tự do, còn chính người van xin biện hộ cho anh em thì lên đường khổ nạn.
          Quả vậy, ơn thánh không hủy diệt bản tính tự nhiên nhưng đón nhận, thánh hóa, và trợ giúp để bản tính tự nhiên tiến đến hoàn thiện viên mãn. Với đức nhân, với lòng dũng cảm, với trí khôn ngoan cùng với ơn thánh, thầy Anrê quyết định để cho lính bắt thầy mau chóng như thế; có thể vì thầy đã nghĩ rằng: Thầy là người em út trong nhóm thầy giảng, thầy có mất đi cũng không ảnh hưởng gì đến sinh hoạt, đến sự sống còn của nhóm. Trong khi nếu thầy Inhaxiô, người anh cả khôn ngoan, bản lĩnh...mất đi thì sẽ ảnh hưởng lớn đến nhóm. Cha Đắc Lộ là sư phụ, là linh hồn của nhóm, nhưng sự hiện của cha có tính cách bấp bênh vì lệnh trục xuất của ông Nghè Bộ có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Do đó sự hiện diện của thầy Inhaxiô luôn luôn cần thiết cho anh em, cho công cuộc truyền giáo. Để cho lính bắt thầy như một ‘chiến lợi phẩm’, điều đó có thể làm dịu đi việc truy tìm thầy Inhaxiô, đồng thời là tiếng chuông báo động nguy hiểm cho thầy Inhaxiô, thầy Inhaxiô có thể trốn thoát.
Quả vậy, trong lúc tấn bi kịch xảy ra tại Hội An thì Cha Đắc Lộ và các thầy giảng sắp vào Dinh Trấn thăm hữu nghị ông Nghè Bộ. Vừa lúc ấy, ý Chúa nhiệm mầu sai khiến ông Horace Massa, một thương gia người Ý chạy đến cấp báo cho cha Đắc Lộ biết sự việc xảy ra tại Hội An. Cha Đắc Lộ vội vàng cho các thầy giảng trở về tìm nơi ẩn núp. Còn thầy Anrê đã chọn hy sinh, quên mình làm hướng đi và thầy đã trung thành đến hơi thở cuối cùng với lựa chọn của mình.

3. CHÂN PHƯỚC ANRÊ PHÚ YÊN VỚI CHIỀU CAO CUỘC ĐỜI

- Chiều cao cuộc đời là hướng đi lên tới Thiên Chúa.
Được biết Chúa Giêsu, yêu mến Chúa Giêsu và làm chứng cho Chúa Giêsu là hành trình đức tin thánh Tông Đồ Anrê đã đi. Sau 17 thế kỷ, cũng từ miền sông nước, một Anrê khác theo gương vị Bổn mạng của mình,  đã từ bỏ Sõng lưới, từ bỏ ruộng vườn, từ bỏ gia đình...để dành trọn vẹn tình yêu cho Chúa Giêsu. “Hãy giữ nghĩa cùng Chúa Giêsu cho đến hết hơi, cho đến trọn đời” là châm ngôn sống của Chân phước Anrê Phú Yên.
          Trong sân nhà lao, Anrê Phú Yên đã khẳng định lòng tín thác đó khi nói với đám đông lương giáo vây quanh mình : “Các anh em thấy rõ tôi đây đã bị bắt và sắp phải chết, chẳng phải vì ăn cướp, giết người hay làm thiệt hại ai, mà chỉ vì tôi đã nhìn nhận Chúa tể trời đất và Con Một Người xuống thế chuộc tội cho ta. Mọi sự ta có đều do Người. Thế mà người ta lại muốn tôi phạm đến Người. Tôi chẳng sợ bất cứ hình phạt nào người ta có thể bắt tôi chịu, tôi chỉ sợ lửa hoả ngục đời đời. Hỡi anh em, anh em hãy coi chừng, đừng từ chối ơn Đức Chúa Trời đã ban cho anh em ” (Sđd. Tr.148).
Cha Đắc Lộ kể lại những giây phút cuối cùng của Chân phước Anrê Phú Yên đã hoàn thành cuộc đời vào chiều hôm 26/07/1644: :“ Tôi mê hồn nhìn thấy người thanh niên chân phước kia, lúc ấy quỳ gối, và đã bị đâm ba lần ở sau lưng, chẳng những không ngã quỵ, mà lại không hề lay chuyển; Thầy được vững mạnh như vậy trong ơn thánh sủng nâng đỡ Thầy; Thầy vẫn luôn luôn không chuyển động, và tôi thấy diện mạo của Thầy không mất chút nào về vẻ bình thản  cũng như về màu sắc… Người thanh niên thánh thiện nầy vẫn không ngớt đọc Thánh Danh Chúa Giêsu; ngay khi đầu của thầy đã rời khỏi cuống họng, và nằm ngả trên vai bên phải, tôi nghe thấy rỏ ràng tên cực trọng Giêsu phát ra từ vết thương nơi cổ, cùng một giọng giống hệt như từ cửa miệng phát ra lúc trước; tôi nghe thấy thế rất rõ ràng và tất cả những người gần tôi lúc ấy đều nói như vậy, vừa vui mừng, lại vừa kinh ngạc. Thánh Danh Giêsu không thể phát ra từ miệng thầy nữa, thì lại phát ra từ trái tim thầy, ngay đang lúc thôi đập, để tỏ rằng trái tim nầy dầu có chết, cũng còn giữ mãi Thánh Danh kia, và khi không thể dùng miệng lưỡi mà ca ngợi Danh Thánh Giêsu được, thì thầy dùng chính vết thương mình mà ca ngợi Danh Chúa...” (Sđd, tr. 156).
Cùng với Thánh Phaolô, Chân Phước Anrê Phú Yên đã tiếp tục minh định : “ Tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời là được biết Đức Kitô Giêsu, Chúa của tôi. Vì Người tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như đồ bỏ, để được Đức Kitô và được kết hợp với Người” (phil. 3,8).

          III. MẢNH ĐẤT TỐT CHO HẠT GIỐNG NẨY MẦM

1. Nơi Chân phước Anrê Phú Yên: sự tự do của con người được kết hợp hài hòa với ân sủng.

Chúng ta thử nghĩ xem, vào lúc hạt giống Tin mừng mới vừa được gieo trên quê hương chúng ta, làm sao một chàng thanh niên mới 15 tuổi đã dứt khoát chọn lựa theo Chúa và dám đem cái chết của mình ra để minh chứng lòng tín trung  của mình ? chết vào lúc 19 tuổi, chết quá trẻ, sống đức tin hơn 3 năm. Quả vậy, không có ơn Chúa chúng ta không làm được việc gì. Do đó phải nói được rằng nơi Chân phước Anrê Phú Yên là chuỗi dài sự tự do của con người được kết hợp hài hòa với ân sủng. Chân phước Anrê Phú Yên đã tự do quyết định hướng đi cho đời mình và dù ơn Chúa là một kho tàng bất tận luôn có đó, nhưng Anrê Phú Yên phải ra sức mò mẫm hy sinh trong cố gắng của cả một đời người để hoàn thành cuộc đời, mặc dù ngắn ngủi.

2. Môi trường sinh thái của nhân bản và đạo đức

Anrê Phú Yên đã quảng đại hy sinh cuộc đời mình và tự nguyện lãnh lấy trách nhiệm trong cuộc sống. Việc này có được không phải là một sớm một chiều. Nó có bề dày nền tảng của nó. Đó là nhờ có một bà mẹ đạo đức, một người thầy uyên thâm và một mẫu gương tông đồ giáo dân sáng ngời.  

2.1. Bà Gioanna

Bà Gioanna, mẹ của Anrê, góa chồng sớm, nhưng đã dạy con chu đáo. Chính bà đã đến xin cha Đắc lộ cho con mình làm đệ tử của cha. Yếu tố người mẹ trong việc giáo dục nhân cách và đức tin rất quan trọng. Chúa sáng tạo và quan phòng đã phú ban cho người nữ tấm lòng của người mẹ, lòng mẹ thì bao như biển Thái Bình, lòng mẹ hy sinh, lòng mẹ yêu thương. Cha Philipphê Bỉnh viết : “Bà rất chăm sóc việc giáo dục cho Anrê về đường đức hạnh và đường học vấn”. (truyện Đàng Trão, trang 46).

2.2. Cha Đắc Lộ

Cha Đắc Lộ, vị truyền giáo tài tình đã nhờ ơn Chúa soi sáng và kết hợp với sáng kiến cá nhân của ngài mà Nhà Đức Chúa Trời đã được lập nên, phỏng theo đời sống đại gia đình Việt Nam, ngài lấy tinh thần gia đình để huấn luyện các học trò của mình. Các thầy giảng đã được huấn luyện nhuần nhuyễn từ nền lễ giáo Đông Phương về nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, và sau đó trong cái gốc đầy sức sống ấy, cha Đắc Lộ đã cấy ghép Đức tin Kitô giáo vào. Nhờ vậy đạo Công giáo mà cha và các thầy rao giảng không xa lạ đối với đồng bào chúng ta. Tất cả chúng ta từ nhiều địa phương, từ nhiều dòng họ khác nhau được mời gọi sống chung thành đại gia đình con cái Chúa. Tình Gia đình đó là một tình cảm sâu nặng mà mỗi người chúng ta phải  phát huy trong đại gia đình chúng ta đang sống, cộng đoàn dân Chúa.
Năm 1642 Cha Đắc Lộ có dịp đến Phú Yên lần thứ hai, Anrê Phú Yên ngỏ lời với cha Đắc Lộ, xin theo Cha giúp việc truyền giáo. Lúc đầu cha Đắc Lộ từ chối vì Anrê còn trẻ, hơn nữa trong thời buổi cấm đạo việc di chuyển của đoàn truyền giáo có đông người là điều nên tránh. Tuy nhiên sự kiên trì nài nỉ của Anrê và của người mẹ đạo đức, đến không để van xin cho con út quý yêu của mình được ‘ngồi bên tả hay bên hữu’ mà đến để van xin được đồng hành yêu mến và làm chứng cho Chúa Giêsu. Thiện chí đó đã khiến Cha Đắc Lộ gạt sang một bên cái lôgíc rất hợp tình hợp lý, rất khôn ngoan, rất người kia, để nhường chỗ cho cái lôgíc tình yêu quan phòng của Thiên Chúa chiếm hữu và hướng dẫn. Hoan hô Cha Đắc Lộ ! Bài giáo lý bao đồng Cha truyền lại cho Anrê Phú Yên không phải là những lời nói suông mà là một thái độ sống ấn tượng. Anrê đã nhập tâm bài giáo lý bao đồng ấy : Tín thác hoàn toàn vào tình yêu quan phòng của Cha trên trời. Lòng tín thác ấy đã được tỏ lộ mạnh mẽ trong cuộc đời, nhất là lúc đối diện với đau khổ và cái chết.

2.3. BÀ NGỌC LIÊN CÔNG CHÚA

Đặc tính của người nữ là yêu thương phục vụ, có rất nhiều ơn gọi phục vụ không kèn không trống đang diễn ra từng ngày, trong gia đình, trong giáo xứ, trong các môi trường hoạt động thiện ích xã hội. Việc  những người nữ tham gia vào việc hoạt động truyền giáo đã đem lại nhiều hiệu quả. Trường hợp bà Maria Ngọc Liên là một điển hình. Dựa vào lòng bao dung sẳn có nơi người nữ, lại nữa như một folklore của dân tộc, các vị thừa sai khơi sáng lòng bao dung hướng tới những người nghèo, những người bị bỏ rơi. Cha Đắc Lộ ghi nhận : “Một bà nhân đức tên là Maria Madalena, vợ quan trấn thủ, đã làm nhiều việc thiện trong tỉnh Phú Yên, bà còn là một người sáng lập một bệnh viện để chăm sóc tất cả giáo dân và người tân tòng bị chứng bất trị. Trong đám bệnh nhân có mấy người cùi sẵn sàng chịu phép rửa tội, để được trong sạch trong linh hồn. Mỗi ngày người ta giảng dạy những điều cần thiết để chuẩn bị phép bí tích ban ơn thánh, có mấy người bổn đạo cũ đến giúp và dự vào việc huấn giáo”. [11]
Bà Ngọc Liên chẳng những đã bảo trợ cho các bệnh nhân mà còn là người bảo trợ cho các dự tòng và tân tòng. Có bà bảo trợ, các dự tòng và tân tòng mới có thể ra vào được nhà nguyện trong dinh Trấn Biên. Gương sống đạo, lòng rộng lượng, sự thơm thảo, thởi lởi của bà bảo trợ chắc hẳn đã để lại trong lòng Anrê Phú Yên một ấn tượng sâu sắc. Chính ấn tượng nầy đã ảnh hưởng đến những chọn lựa và quyết định định hướng cuộc đời của Anrê.
Gương sống đạo của cha Đắc Lộ, của bà Gioanna, của bà Maria Madalêna Ngọc Liên và Chân phước Anrê Phú Yên là một lời nhắn nhủ chúng ta: Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta có bổn phận rao giảng Tin Mừng, nhưng lời giảng hùng hồn nhất là chính cuộc sống chúng ta.



[1]. Phạm Đình Khiêm, Người Chứng Thứ Nhất , Tinh Việt Văn Đoàn, Sài Gòn 1959, tr. 56
[2] Sđd, trang 40.
[3] Sđd, trang 42.
[4] Adrien Launay, Histoire de la Mission de Cochinchine 1658-1823, T.II, Paris 2000, p. 191-192.
[5] Mission de Quinhon,  Mémorial no. 58, 31 Oct. 1909, p. 152.
[6] sđd tr.79
[7] sđd tr.92
[8] sđd tr.80
[9] Còn gọi là sông Kỳ Lộ. Sông chảy qua cầu Ngân Sơn, một nhánh qua cầu Lò Gốm  ra đầm Ô Loan, và một nhánh đến đập Tam Giang rồi ra biển Tiên Châu.
[10] Sđd tr.125
[11] Hành trình truyền giáo, A. de Rhodes, Hồng Nhuệ dịch, trang 105 -106, tủ sách đại kết, 1994