VHNA
Đối với lịch sử trung hưng nhà Lê, năm canh tý, 1600, dù nhìn dưới khía cạnh nào cũng phải thừa nhận đây là một niên đại quan trọng.
Niên đại 1600, đánh dấu sự thoát ly của Nguyễn Hoàng khỏi vòng cương tỏa của Trịnh Tùng. Nói rõ hơn, niên đại 1600, Nguyễn Hoàng dứt khoát bỏ miền Bắc, đặt Thuận - Quảng vào thế đứng biệt lập với Thăng Long, hay Đàng Trong biệt lập với Đàng Ngoài.
Đang khi Bình An vương Trịnh Tùng, triều thần vua Lê Kính Tông (1600-1619) cùng với vương phủ họ Trịnh mở tiệc liên hoan đón Tết Đoan Ngọ [mồng 5 tháng 5 năm canh tý, 1600] bổng nghe tin Nguyễn Hoàng và đạo quân Dinh Hùng Nghĩa của ông đã theo thủy lộ Thăng Long - Đại An dong buồm về Thuận Hoá. Sách Cương Mục Tiết Yếu ghi vắn tắt sự kiện lịch sử nầy như sau: “Khi hay tin, lòng người dao động, Tùng liền đem vua về Thanh Hoá [Tây Đô] để củng cố đất căn bản”.1
Đây là một biến cố lớn làm rúng động cả triều đình vua Lê, cả phủ liêu họ Trịnh và nhất là khắp Thăng Long, dân chúng cũng xôn xao bàn tán. Biến cố nầy trực tiếp tác động đến sự tồn tại của Trịnh Tùng cũng như chính Nguyễn Hoàng. Nếu có một phản ứng nghiêm trọng nào xảy ra bất cứ từ phía nào, tất sẽ di hại to lớn và ảnh hưởng lâu dài sau nầy. Cũng may, Trịnh Tùng chỉ biết đem vua Lê về lại Tây Đô trong tình thế hoàn toàn bị động, và lo chuẩn bị đối phó vì mọi bất trắc có thể xảy ra.
Như vậy, sau biến cố Tết Đoan Ngọ, người ta thấy Trịnh Tùng lo giữ thế thủ hơn là phô trương thế công. Biết Nguyễn Hoàng đã về lại Thuận Hoá, tất nhiên biên gìới phía nam của Tây Đô là Đèo Ngang Trịnh tùng phải lo phòng vệ tối đa. Lần thứ nhất, đây là một phòng tuyến giữa hai thế lực bắc và nam có lý do xuất hiện, cả trong tư tưởng cả trên thực tế của hiện trường.
1. Đường ranh phân chia: một cây lau nhỏ hay một dòng sông?
Sách Đại Nam nhất Thống Chí , nói về tỉnh Quảng Bình có viết: “Khi quốc sơ, binh họ Trịnh cùng binh ta [họ Nguyễn] chống nhau, lấy Sông Gianh làm giới hạn, đồn binh ở đấy. Một đồn ở xã Trung Ái, một đồn ở xã Phan Long, một đồn ở xã Xuân Kiều, tục hiệu là Ba Đồn [cũng gọi là Tam Hiệu hay Tam Phiên], sau bị Đại tướng quân của ta là Nguyễn Hữu Dật đánh phá tan cả”2. Do câu lấy Sông Gianh làm giới hạn, đã trở thành một đề tài lịch sử điạ lý khá quan trọng và được nhiều nhà nghiên cứu lịch sử bàn luận sôi nổi tứ trước tới nay. Gần đây nhất, nhà nghiên cứu sử, tác giả cuốn Quảng Bình, Chín Trăm Năm Nhìn Lại (1075-1975) đã dành ra 25 trang sách, ở mục nói về Đàng Ngoài – Đàng Trong, một vài luận điểm từ nguyên và ranh giới, sau khi đã liệt kê nhiều ý kiến khác nhau, tác giả cho rằng vấn đề nầy vẫn là tồn nghi lịch sử.
Một phần sự kiện vừa nêu, có liên quan đến nhân vật lịch sử mà chúng tôi đang cố gắng tìm hiểu, đó là Nguyễn Hoàng, do đó chúng tôi trình bày quan điểm riêng và hy vọng chuyện tồn nghi lịch sử nầy được phần nào sáng tỏ.
Cũng như tác giả Nguyễn Đức Cung, nhiều người đã bắt đầu với câu hỏi: “Châu Bố Chính bị họ Trịnh chiếm lúc nào?” [mà nay phải chiếm lại]. Về điểm then chốt nầy, xin dẫn lại ý kiến của linh mục sử gia Nguyễn Phương.
“Trước khi phân tranh, châu Bố Chính, cả Bắc Bố Chính lẫn Nam Bố Chính, đều thuộc về đơn vị Thuận Hoá, và quan lại ở đây cũng như ở các phủ huyện khác, đều do Thăng Long bổ nhiệm. Từ khi chúa Nguyễn ly khai, chúa thay thế dần dần bằng người riêng của chúa, hoặc các quan của miền Bắc gửi vào đã qui thuận miền Nam. Nhưng những kẻ đứng đầu châu Bố Chính, trong trường hợp trên, vẫn trung thành với chúa Trịnh. Vì đó Phúc Nguyên phải sắp xếp. Năm canh ngọ (1630), khi Văn Khuông đi sứ về, và việc phòng thủ phải cẩn mật hơn, Đào Duy Từ xin chúa Sãi đánh Nam Bố Chính để dời ranh giới từ Nhật Lệ ra Sông Gianh. Lúc đó tri châu Nam Bố Chính là Nguyễn Tịch. Quận Công Nguyễn Đình Hùng, con của Ư Kỷ được lệnh đem quân ra chinh phạt, chém được Nguyễn Tịch tại trận. Chúa đổi châu thành dinh và đóng ở chỗ thường gọi là Dinh Ngói (ở làng Chánh Hoà, huyện Bố Trạch ngày nay), và có 24 đội thuyền ứng chực, đặt dưới quyền của Trương Phúc Phấn.”2bis
Lời giải thích của linh mục giáo sư sử học Nguyễn Phương nhắc lại hai sự kiện quan trọng, đó là tình trạng hành chánh trước khi phân tranh và ai là người chủ động đánh chiếm châu Nam Bố Chính. Phải thừa nhận rằng năm 1630 là cả Bắc lẫn Nam, nghĩa là cả họ Trịnh và họ Nguyễn chính thức đi vào cuộc phân tranh quyết liệt.
Lãnh thổ Đại Việt từ sau năm 1471, lúc vua Lê Thánh Tông (1460-1497) mở cuộc nam chinh, lấy đất Chiêm Thành đến núi Đá Bia, và chọn vị trí địa lý nầy làm biên giới cực nam của Đại Việt, thì từ đó đến năm 1630, không có phần đất nào của lãnh thổ bị mất đi, đến nỗi phải cất quân đi đánh để chiếm lại. Như vậy, câu hỏi: “châu Bố Chính bị họ Trịnh chiếm lúc nào?” xét ra không có cơ sở để nêu ra như một vấn đề lịch sử cần phải giải quyết. Lý do, vì toàn bộ lãnh thổ Đại Việt là của vua Lê. Khi đề cử Nguyễn Hoàng vào làm trấn thủ Thuận Hoá năm 1558, và sau đó, năm 1570, cho kiêm nhiệm trấn thủ Thừa Tuyên Quảng Nam, thì Nguyễn Hoàng là quan lại của vua Lê, cũng như Nguyễn Tịch là quan lại của vua Lê được cử đến coi châu Bố Chính. Cả hai đều hành sử quyền cai trị, nhân danh vua Lê và tùng phục mọi mệnh lệnh từ trung ương để bảo đảm việc an dân ở tại địa phương.
Đối với Nguyễn Hoàng, cho đến ngày cuối cùng của cuộc đời [ngày 3 tháng 6 năm quý sữu tức ngày 20-7-1613], ông vẫn là một công thấn của vua Lê. Bằng cớ là, dầu có ly khai với họ Trịnh từ sau năm 1600, Nguyễn Hoàng vẫn trung thành với vua Lê. Bỏ Thăng Long về lại Thuận Hoá, Nguyễn Hoàng chưa có một hành động nào chứng tỏ ông chống lại vua Lê. Nhân dân châu Bố Chính từ Đèo Ngang vào tới sông Nhật Lệ, nghĩa là cả Bắc Bố Chính và Nam Bố Chính chưa có một triệu chứng nào muốn ly khai với triều đình vua Lê, hà cớ gì vua Lê hay chúa Trịnh phải cất quân đi đánh.
Có chăng là, từ khi bỏ Thăng Long về lại Thuận Hoá, Nguyễn Hoàng đã thực hiện một vài thay đổi trong phạm vi quyền hạn của mình. Việc đầu tiên là Nguyễn Hoàng cho dời dinh trấn thủ về phía đông dinh Ái Tử. Dinh mới nầy được gọi là Dinh Cát. Liền sau đó, Nguyễn Hoàng vượt đèo Hải Vân, thấy: “một dải núi cao dăng dài mấy trăm dặm nằm ngang đến bờ biển. Chúa khen rằng: “Chỗ nầy là đất yết hầu của miền Thuận Quảng”. Liền vượt qua núi xem xét hình thế, dựng trấn dinh ở xã Cần Húc (thuộc huyện Duy Xuyên), xây kho tàng, chứa lương thực, sai hoàng tử thứ sáu [Nguyễn Phúc Nguyên] trấn giữ, có Dương Đàm hầu Trần Ngọc Phân làm phó tướng”4.
Năm 1602, Nguyễn Hoàng tách huyện Điện Bàn vốn thuộc phủ Triệu Phong trong Thừa tuyên Thuận Hoá, cho nhập vào Quảng Nam Dinh. Năm giáp thìn, 1604, Nguyễn Hoàng cho đổi Tiên Bình Phủ thành Quảng Bình Dinh. Cũng như Quảng Nam Dinh, Quảng Bình Dinh từ nay không nhất thiết là một đơn vị hành chánh thuần túy nữa mà đã trở thành một đơn vị quân sự, vì “các dinh đều có tướng dũng binh mạnh đóng giữ”5.
Có lẽ do những động thái mang tính chuẩn bị về mặt an ninh như vậy, nên năm 1610, Diễn Gia hầu Lê Bật Tứ, chức Tả lang Bộ Hộ của triều Lê, dâng tờ khải lên Bình An vương Trịnh Tùng đòi đi trị phiên trấn Thuận Hoá Quảng Nam. Nội dung tờ khải gồm hai điểm, lập thế tử và xử trí bọn phiên trấn mạnh để thống nhất chế độ. Lê Bật Tứ viết: “Bậc vương giả coi cả nước là một nhà, bên giường nằm, lẽ nào để cho kẻ khác nằm ngáy? Nay các xứ Thái Nguyên Lạng Sơn, Quảng Nam, Thuận Hoá vốn là bờ cõi của tiên vương, thế mà lâu nay chứa tệ, để mặc cho bọn ngoan ngạnh. Nếu không xử trí, sợ thành mối lo về sau…”6
Nhận tờ khải của Lê Bật Tứ, Trịnh Tùng chỉ thực hiện điểm một mà bỏ điểm hai. Điều nầy chứng tỏ, dù được kích động bởi một số quan lại ăn không ngồi rồi ở Thăng Long lúc bấy giờ, cả vua Lê và chúa Trịnh vẫn không dám động binh, vì sợ bị đẩy vào một cuộc phiêu lưu nguy hiểm. Như vậy, việc họ Trịnh tiếp tục giữ thế thủ từ năm 1600 đến năm 1627 là một bằng chứng có sự tính toán kỷ lưỡng trong đối sách với họ Nguyễn ở miền Nam.Vả lại, năm 1623 khi Trịnh Tùng qua đời, con là Trịnh Tráng lên thay cha, lập vợ là Ngọc Tú, con gái thứ của Nguyễn Hoàng lên làm Tây cung chánh phi. Trong tư cách đó, Ngọc Tú đã sai Nguyễn Kiều từ Thăng Long mang mật thư vào cho chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên. Không rõ mật thư nói gì, nhưng sách Thực Lục Tiền Biên kể là chúa rất vui mừng, giữ Nguyễn Kiều lại, cho làm cai đội coi mã cơ, được cải theo quốc tính Nguyễn Phúc, lại gả công chúa Ngọc Đĩnh cho.
Trong một mức độ nào đó, tình thông gia giữa hai họ Trịnh Nguyễn cũng là một căn cớ để cân nhắc đắn đo, khi hai bên có sự hiềm khích trong quyền lực. Chẳng hạn, khi Trịnh Tùng còn trên giường bệnh, Trịnh Xuân đã tranh quyền với Trịnh Tráng, nổi lửa đốt kinh thành, tạo cơ hội cho con cháu họ Mạc là Mạc Kính Khoan đem quân về Chiếm Gia Lâm, uy hiếp Thăng Long. Chính lúc nội tình họ Trịnh bối rối như vậy, Thụy Quận công Nguyễn Phúc Nguyên đã đưa ý kiến: “Tùng không biết có vua, Xuân không biết có cha, đạo trời báo ứng thật chẳng sai…Ta muốn nhân dịp nầy cử binh để phò vua Lê, nhưng đánh người trong lúc có tang là bất nhân, thừa lúc người đương nguy là bất võ; huống chi ta với họ Trịnh có nghĩa thông gia, chi bằng trước hết hãy đem lễ đến phúng để xem tình hình rồi sau sẽ liệu kế . Bèn sai sứ ra phúng”.7
Trong tình trạng binh lương thiếu thốn, năm giáp tý, 1624, Thanh Đô vương Trịnh Tráng đã sai Công bộ Thượng thư Nguyễn Duy Thì và Nội giám Phan Văn Trị vào Thuận Hoá đòi thuế đất. Thụy Quận công nói với sứ giả miền Bắc: “Hai xứ Thuận Quảng liền mấy năm không được mùa, dân gian túng đói, vì thế không nỡ thu thuế. Khi khác được mùa sẽ chở nộp cũng chưa muộn”. Hai sứ giả về không. Lần thứ hai, chúa Trịnh vừa làm áp lực, một mặt sai hai tướng Nguyễn Khải và Nguyễn Danh Thế đem 5,000 quân vào Hà Trung, sát phía bắc Đèo Ngang, chuẩn bị mở cuộc tấn công, Mặt khác, sai Binh khoa cấp sự trung Nguyễn Hữu Bản đem sắc dụ vua Lê vào đòi tô thuế từ năm giáp tý [1624] trở về trước và buộc Thụy Quận công phải ra Đông Đô triều yết, chúa Sãi vẫn bình tĩnh cười, bảo với sứ giả: “Việc nầy là do ý riêng của họ Trịnh, chứ hoàng đế nhà Lê nhân từ, há lại quên ơn dòng dõi công thần sao? Vả lại quân dân, của cải hai xứ nầy so với bốn trấn có là bao mà tham cầu như thế. Nếu nghĩ đến công tổ tiên ta, nên cắt cả Nghệ An cho ta nữa, huống chi là đất Thuận Quảng.” Các tướng phần nhiều xin đánh, nhưng chúa nói: “Họ Trịnh đã quên ơn, gây oán, mà ta lại lấy thân thích làm thù, e chẳng để cười cho thiên hạ”. Rồi quay lại bảo sứ giả: “Các ông vì tôi nói với Trịnh vương đừng để ý những điều hiềm nhỏ”. Rồi hậu đãi sứ giả mà bảo về. 8
Thế là hai lần sứ giả họ Trịnh đi không, lại về không. Nhưng chưa hết, họ Trịnh vẫn tưởng thế lực của mình còn có trọng lượng trong tờ sắc của vua Lê. Đầu năm đinh mão, 1627, một lần nữa Lê Đại Nhậm mang sắc vào, ngoài tô thuế, còn buộc Thụy Quận công phải cho con ra chầu, thêm 30 thớt voi đực, 30 thuyền đi biển để dùng vào việc cống triều Minh. Chúa Sãi cười và trả lời bằng một câu nói mang hai ý nghĩa, nửa như thử thách, nửa như tiết lộ việc Thuận Hoá đang thật sự củng cố biên phòng. “Lệ ta cống triều Minh chỉ có vàng và kỳ nam thôi. Nay họ Trịnh đòi thêm ngoại ngạch, ta không dám theo mệnh. Còn con ta thì đương sắm quân khí để sửa sang việc biên phòng, xin vài năm nữa ra chầu cũng không muộn”9.
Không thể kiên nhẫn hơn được, tháng 2 năm đinh mão, 1627, họ Trịnh mở cuộc tấn công miền Nam. Đây là trận thử sức đầu tiên mà bên chủ động là họ Trịnh đã nhận lấy thất bại. Tấn công mà không thắng tức là thua. Thêm vào đó, họ Trịnh còn thua trên trận chiến tâm lý, khi họ Nguyễn cho phao tin ở Thăng Long Trịnh Gia và Trịnh Nhạc đang nổi loạn. Nghe tin, chẳng cần kiểm chứng hư thực, Trịnh Tạc vội cuốn tướng thu quân, gấp rút trở về Thăng Long trong nỗi lo lắng có thể vừa mất cả chì lẫn chài. Và khi họ Trịnh chưa lấy lại khí thế đi trị phiên trấn, thì ở miền Nam, năm 1630, chúa Sãi đánh chiếm châu Nam Bố Chính, đưa phòng tuyến từ Nhật Lệ ra tận Sông Gianh - Nguồn Son để chuẩn bị đối phó lâu dài với họ Trịnh.
Phải thừa nhận đây là một chiến thắng của họ Nguyễn, vừa công khai tự chọn ranh giới để đương đầu với họ Trịnh, vừa trả đũa trận tấn công năm 1627. Hành động nầy cũng nói lên sức mạnh của Đàng Trong, cho dù Đàng Ngoài đã thiết lập 3 cái đồn ở Bắc Bố Chính, có chỗ tích trử binh lương, lại có nơi đặt hành tại cho vua Lê cùng thân chinh với Thanh Đô vương Trịnh Tạc đi tiểu trừ phiên trấn Thuận Quảng.
Đến đây thì đường ranh phân chia nam bắc đã thấy rõ. Quan điểm của chúng tôi trình bày trong bài viết Thử đi tìm giới tuyến Đàng Ngoài và Đàng Trong, đăng trong Tạp Chí Tiếng Sông Hương, số ra năm 2002-2003, đã được tác giả Nguyễn Đức Cung nhắc lại và chia sẻ, khi ông nhận xét: “Ông Hoàng Đình Hiếu đã đề cập đến vấn đề giới tuyến và đưa ra những phân tích khá cụ thể để đi đến kết luận Sông Gianh - Nguồn Son là biên giới giữa Đàng Ngoài và Đàng Trong”10
Xin nhắc lại, Nguồn Son cũng là Rào Son hay sông Troóc, khi chảy từ thượng nguyên về đến gần làng La Hà thì nhập với Sông Gianh rồi chảy ra biển, là thủy lộ thiên nhiên, có chiều dài tổng cọng là 43,8 km [38,8 km + 5km= 43,8km], từ sau năm 1630 là ranh giới giữa châu Bắc Bố Chính và Nam Bố Chính, đồng thời cũng là ranh giới chính thức giữa Đàng Ngoài và Đàng Trong sau năm 1659.
Trong sách Phủ Biên Tạp Lục, sử gia Lê Quý Đôn đã ghi nhận: “Ở chỗ phân giới xưa trên sông Son có chỗ bỏ trống là Cồn Bồi, cồn Thị, cồn Cấm, dân hai bên đều không dám cày cấy, cây cỏ mọc thành rừng…”, và Ngô Thời Sĩ, viết Lời bạt cho sách Phủ Biên Tạp Lục thì nói: “Hai trăm năm tới đây, cắt đất Bố Chính làm hai phía, lấy một cây lau nhỏ làm giới hạn. Công việc miền Nam hà cũng mơ màng không rõ gì cả…”. (Bản dịch của Nxb Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1977). Trong khi đó, Bản dịch của Lê Xuân Giáo, Phủ Quốc vụ khanh, Đặc trách Văn Hoá, Sàigòn 1973, thì viết: “Thế rồi từ sông La Hà [tức Sông Gianh] trở vào phía nam được coi như một cõi đất nước khác. Từ hai trăm năm trở lại đây, châu Bố Chính được chia cắt thành hai thuộc riêng biệt, người ta lấy một con sông làm giới hạn. Cho nên những công việc xảy ra phía nam sông La Hà, mọi người chúng ta đều mờ mịt, không ai hay biết gì hết”. 11
Cũng nên biết rằng, Sông Gianh có những nét đặc thù riêng của nó. Bởi vì:
Sông Gianh cả thảy ba nguồn,
Nguồn Nan, Nguồn Nậy, lại còn Nguồn Son.
Lòng thành dạ thiết cho tròn,
Mai sau dựng nghiệp, cháu con hưởng nhờ.
(Ca dao vùng Sông Gianh)
Giới tuyến Sông Gianh - Nguồn Son được xác nhận hai lần nữa với những sự kiện lịch sử khá rõ ràng. Việc thứ nhất liên quan đến tôn giáo, việc thứ hai liên quan đến thờì điểm kết thúc chiến tranh Trịnh Nguyễn.
Năm 1659, thấy công cuộc truyền giáo ở Đại Việt đã phát triển, giáo quyền Roma đã qui tụ các xứ đạo lẻ tẻ của các miền truyền giáo lại, đặt trực thuộc một vị giám mục do Tòa Thánh chỉ định và nâng khu vực truyền giáo cũ thành các giáo phận mới.
Ở Đại Việt có hai giáo phận tiên khởi được thành lập bởi Đoản Sắc Super Cathedram Principis do Đức giáo hoàng Alexandro Vll (1655-1667) ban hành ngày 9-9-1659, đó là giáo phận Đàng Ngoài, bao gồm các tỉnh phía nam Trung Hoa và Ai Lao; giáo phận Đàng Trong, bao gồm Cao Miên và Thái Lan. Giáo phận Đàng Ngoài do giám mục Francois Pallu (1658-1678) coi sóc; giáo phận Đàng Trong do giám mục Pierre Lambert de la Motte (1658-1679) quản nhiệm. Giáo quyền lúc bấy giờ đã căn cứ trên một được ranh phân chia có sẵn, để dùng làm giới tuyến cho hai giáo phận mới thành lập. Và điều khá hy hữu là đường ranh phân chia hai giáo phận Đàng Trong, Đàng Ngoài năm 1659 đến nay vẫn còn, đó là Sông Gianh - Nguồn Son.12
Cũng vậy, vào năm nhâm tý, 1672, chúa Trịnh Tạc ở Đàng Ngoài thấy không thể thắng Đàng Trong được sau 7 lần giao tranh, nên đã tự động lui binh. Sông Gianh - Nguồn Son vốn là đường ranh giới cũ của châu Bắc Bố Chính thuộc Đàng Ngoài và châu Nam Bố Chính thuộc Đàng Trong sau năm 1630, từ nay [1672], tự nó đã trở thành đường ranh giới chia hai nước Đại Việt trong một kết ước bất thành văn. Bởi vì sau tháng 12 năm nhâm tý, 1672, cả Đàng Ngoài lẫn Đàng Trong không còn tiến hành một trận đánh nào nữa. Chiến tranh Trịnh Nguyễn kết thúc.
2. Chỉ danh Đàng Ngoài – Đàng Trong và thời điểm xuất hiện
Như đã trưng dẫn tài liệu lịch sử ở trên, sau năm 1600, ba cái đồn binh của chúa Trịnh ở phía nam Hoành Sơn [Đèo Ngang] là Di Luân, Trung Ái và Phan Long, cùng một chiến lũy ở Thuận Bài [nay là xã Quảng Thuận] có lý do để thiết lập khẩn cấp. Ba cái đồn và một chiến lũy, trước năm 1600 chưa ai thấy, nhưng khi cuộc phân tranh bùng nổ năm 1627, thì vị trí ba cái đồn đã được binh lính của chúa Trịnh Tạc dùng làm chỗ dưỡng quân, tích trử lương thực, điểm xuất phát, đồng thời cũng là nơi đặt hành tại của vua Lê, mỗi lần nhà vua thân chinh cùng với Thanh Đô vương đi đánh miền nam.
Cũng vậy, năm 1672, khi cuộc phân tranh kết thúc, chúa Trịnh Tạc đã sai Thống suất Hào Quận công Lê Thời Hiến ở lại trấn giữ Nghệ An, kiêm trấn thủ châu Bắc Bố Chính, chia quân đóng trong các đồn cũ để giữ phần đất phía nam Đèo Ngang cho vua Lê. 13
Điều chúng tôi muốn nói là, sau biến cố Tết Đoan Ngọ, 1600, có một chỉ danh mới xuất hiện trong ngôn ngữ địa phương, đặc biệt là vùng Bắc Bố Chính, đó là Đàng Ngoài và Đàng Trong. Gọi là chỉ danh vì Đàng Ngoài và Đàng Trong mang tính phương hướng bao quát hơn là có tính định vị địa lý. Thoạt tiên, Đàng Ngoài và Đàng Trong, từ sau năm 1600, có chung một giới tuyến là Đèo Ngang. Sau hơn một nửa thế kỷ, năm 1659, Tòa Thánh Roma thiết lập hai giáo phận truyền giáo tiên khởi cho giáo hội Công giáo ở Đại Việt theo Đoản Sắc Super Cathedram Principis do Giáo hoàng Alxando Vll ban hành ngày 9-9-1659, thì giáo quyền lúc bấy giờ đã chọn Sông Gianh - Nguồn Son là đường ranh đã có sẵn từ sau năm 1630, để làm ranh giới phân chia hai giáo phận mới, đó là giáo phận Đàng Ngoài và giáo phận Đàng Trong. Trong ngôn ngữ tôn giáo, Đàng Ngoài và Đàng Trong có biên giới rõ ràng trên lãnh thổ địa lý để phân biệt với các giáo phận lân cận khác.
Bàn về sự xuất hiện hai địa danh Đàng Ngoài, Đàng Trong, đã có nhiều ý kiến đóng góp khác nhau. Sau khi đã tìm hiểu từ nguyên trong, ngoài, ở trong, ở ngoài, linh mục sử gia Léopold Cadière cho rằng hai chữ Đàng Ngoài Đàng Trong xuất hiện trong thế kỷ 18, dùng để chỉ hai nước Việt Nam ở Trung Kỳ và Bắc Kỳ. (NĐC, tr 291). Theo tác giả Trần Gia Phụng thì “trong Từ Điển Việt-Bồ-La của Alexandre De Rhodes ấn hành năm 1651 tại Rome, đã có hai chữ Đàng Ngoài và Đàng Trong, nghĩa là hai địa danh nầy phải xuất kiện trước đó và trở nên phổ thông. Vậy hai địa danh Đàng Ngoài và Đàng Trong có thể xuất hiện từ khi chiến tranh Trịnh Nguyễn phát khởi năm 1627, vì từ đây, nước ta được chia thành hai khu vực với hai chính quyền đối nghịch nhau.”14
Theo học giả Tạ Chí Đại Trường thì “tên Đàng Trong hẵn chỉ ra đời khá lâu sau cuộc phân tranh Trịnh Nguyễn [1627-1672] thành hình, tuy nhiên vì khả năng liên lạc giữa các vùng Nam - Bắc yếu kém so với chiều dài lãnh thổ chiếm được, nên chúa Nguyễn chỉ là kẻ mang ý chí riêng biệt ra khai thác tính chất phân ly tiềm tàng thôi”15. Riêng nhà nghiên cứu sử học Nguyễn Đức Cung thì cho rằng “hai chữ Đàng Trong, Đàng Ngoài có lẽ xuất hiện cùng một thời kỳ với chữ Kẻ Chợ, nghĩa là trong thế kỷ XV và XVl. Kẻ Chợ là tiếng chỉ chốn kinh đô, tức Thăng Long.”16
Đối với ý kiến của học giả Tạ Chí Đại Trường, phải hiểu do hoàn cảnh nào và lúc nào thì cuộc phân tranh Trịnh Nguyễn thành hình? Có phải là năm mậu ngọ,1558, lúc Nguyễn Hoàng vào Thuận Hoá để tránh bị Trịnh Kiểm sát hại như đã sát hại Nguyễn Uông? Hay sau năm 1600, sau khi đã bị cầm chân ở Thăng Long gần 8 năm mà Bình An vương Trịnh Tùng không hề đả động đến trách nhiệm quan trọng của Nguyễn Hoàng là tổng trấn hai xứ Thuận Quảng? Hoặc sau năm 1627, lúc chiến tranh giữa hai họ Trịnh Nguyễn chính thức bùng nổ? Ngoài ý kiến của tác giả Nguyễn Đức Cung, cả ba lập luận trên đây xem ra quá trể so với các sự kiện lịch sử đã xảy ra.
Quan điểm chúng tôi là, sau năm 1600, khi ba cái đồn ở Bắc Bố Chính được thiết lập, thì sinh hoạt địa phương trở nên nhộn nhịp. Một phần do binh lính trong đồn có nhu cầu của đời sống, một phần dân cư gần đó muốn có sự trao đổi mua bán với quân sĩ trú đóng trong ba cái đồn. Do vậy mới có một cái chợ [gia binh] nhóm gần đồn Phan Long. Lúc đầu tên cái chợ cũng là tên cái đồn, chợ Phan Long. Về sau chợ được cải tên là chợ Ba Đồn. Có lẽ do binh lính và cả vợ con của họ ở đồn Xuân Kiều và đồn Trung Ái tập trung về chợ Phan Long, càng ngày càng đông, do đó mới có một tên chung là Chợ Ba Đồn [chợ chung cho cả ba cái đồn]. Chợ Ba Đồn từ ngày khai sinh, nay đang tồn tại và trở thành một thị trấn lớn, nơi đặt huyện lỵ huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình ngày nay.
Do hoàn cảnh lịch sử, phương dân cả phía bắc Đèo Ngang, cả phía nam Đèo Ngang đã có cơ hội gặp gỡ nhau, mua bán, trao đổi hàng hoá địa phuơng với nhau tại một cái chợ phiên, cứ 10 ngày họp một lần vào các ngày 6, 16, 26 của mỗi tháng âm lịch.
Ba Đồn là chợ xưa nay,
Tụ nhân, tụ hoá, mười ngày một phiên.
Phố phường Nam, Khách hai bên,
Mỗi phiên đông đến vài nghìn người ta…
(Quảng Bình Địa Dư tiện độc, tác giả là cụ An Đình Trần Kinh)
Khi họp chợ, người ta quen nhau, biết mặt nhau và biết cả quê quán của nhau. Từ một hoàn cảnh như vậy, tất dễ phát sinh ra một chỉ danh đặc biệt để phân biệt kẻ trong, người ngoài. Do vậy, danh xưng Đàng Trong – Đàng Ngoài, chúng tôi cho rằng đã xuất hiện sau năm 1600. Địa điểm xuất hiện là vùng Bắc Bố Chính. Cơ hội xuất hiện là trong các phiên họp chợ ở Ba Đồn. Tập thể sử dụng đầu tiên có thể là phương dân vùng Sông Gianh – Đèo Ngang, bởi vì câu ca dao dùng chỉ danh Đàng Ngoài đầu tiên mang thổ ngữ đặc sệt của điạ phương Bắc Bố Chính.
Đàng Ngoài đã lắm cau khô,
Lắm con gái đẹp t’lẩy vô thăm chồng
Gặp t’lộ mưa giông,
Đàng t’lơn gánh nặng,
Đèo Ngang chưa t’lèo,
Khớp hòn đá cheo leo,
Chân t’lèo, chân t’lợt,
Kháp O múc nác,
Chộ chú chăn t’lâu.
Ba Đồn quan lính ở đâu ?
[Đàng Ngoài đã lắm cau khô.
Lắm con gái đẹp trẩy vô thăm chồng,
Gặp trộ mưa giông,
Đàng trơn gánh nặng,
Đèo Ngang chưa trèo,
Khớp [sợ] hòn đá cheo leo,
Chân trèo, chân trợt,
Kháp [giáp mặt] O múc nước
Chộ [thấy] chú chăn trâu,
Ba đồn quan lính ở đâu ?]
(Ca dao vùng Bắc Bố Chính).
Cũng cần ghi nhận giá trị lịch sử của những câu ca dao, tục ngữ trong kho tàng văn học dân gian từ trước tới nay. Ở một thời kỳ nhất định nào đó, ca dao, tục ngữ hay những câu thơ nhại theo các văn bản nổi tiếng, thường chuyên tải một nội dung thời thế, một hoàn cảnh lịch sử của đất nước. Chẳng hạn :
Thuở trời đất nổi cơn thuế má,
Bọn nhà nông nhiều gả lao đao.
Xanh kia thăm thẳm từng cao
Vì ai gây dựng nên tao thế nầy.
Trống ngoài đình lung lay bóng nguyệt…
Đọc mấy câu thơ nhại lại những vần thơ nổi tiếng trong tác phẩm Chinh Phụ Ngâm của Bà Đoàn Thị Điểm vừa dẫn, ai cũng biết đây là thời có thuế nông nghiệp ra đời giai đoạn có chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cọng Hoà ở miền Bắc từ thập niên 50 trở về sau. Nhưng người ta có thể cãi lại rằng, bài thơ không chống thuế nông nghiệp của chính phủ HCM, mà chống thuế thời quân chủ phong kiến xa xưa, do có câu : Trống ngoài đình lung lay bóng nguyệt. Thời HCM làm gì có trống thúc thuế nổi lên ở ngoài đình. Cái tài tình của dân gian nằm ở đó !
Nếu cần trưng dẫn thêm về giá trị lịch sử của ca dao, tục ngữ, chúng ta có những câu ghi lại được thời điểm, sự kiện, thái độ và cả lý do mà tập thể dân gian muốn phát biểu :
Tháng chín có lệnh vua ra,
Cấm quần không đáy, người ta hãi hùng.
Không đi thì chợ không đông,
Đi thì bóc lột quần chồng sao đang.
Có quần ra quán bán hàng,
Không quần ra đứng đầu làng trông quan !
Chiếu vua Minh Mệnh ban ra giữa tháng 9 năm mậu tý, 1828, bắt dân Đàng Ngoài phải đổi y phục theo dân Thuận Quảng ở Đàng Trong, nghĩa là phải bận quân chân, áo khách, cấm không được mặc váy. Bày tỏ thái độ trước lệnh cấm nầy, dân gian Đàng Ngoài đã dùng lời lẽ nhẹ nhàng, nhưng thật thấm thía để nói lên sự đối kháng quyết liệt của mình.
Cũng vậy, ngày nay với cái nhìn tinh tế của nhân dân, họ xác định được số phận của họ nằm ở đâu trong nấc thang của một xã hội được nói là vô giai cấp, nhưng rõ ràng là có đẳng cấp :
Tôn Đản là của các quan,
Tây Hồ là của kẻ gian nịnh thần.
Đồng Xuân là của thương nhân,
Viã hè là của nhân dân anh hùng !
Ở đây phải nói tính chất anh hùng thật vô cùng mỉa mai. Thời gian và sự kiện lịch sử xã hội đã được xác định....
Tóm lại, do việc Nguyễn Hoàng muốn phân định hai khu vực địa lý Đàng Noài và Đàng Trong, để xác lập tư thế biệt lập với Chúa Trịnh sau chuyến bỏ Thăng Long về lại Thuận Hoá năm 1600, nên chỉ danh Đàng Ngoài và Đàng Trong đã trở thành phổ thông trong ngôn ngữ địa phương vùng Bắc Bố Chính. Bối cảnh lịch sử và những nét độc đáo của địa phương làm chứng cho nội dung câu ca dao Đàng Ngoài đã lắm cau khô.
Với tất cả nét tiêu biểu vừa điểm qua, Nguyễn Hoàng đã thật sự cải sinh miền đất phía nam Hoành Sơn thành một Thuận Quảng mới. Với Nguyễn Hoàng, Đàng Trong đã trở thành một phần lãnh thổ vĩ đại và phong phú từ sau năm 1600.
Chú thích :1. Nguyễn Khoa Chiêm, Việt Nam Khai Quốc Chí truyện, nxb Nhà Văn, Hà Nội, 1994, tr 78 và Đặng Xuân Bẳng, Việt Sử Cương Mục Tiết Yếu nxb Khoa Học Xã Hội , Hà Nội, 2000, tr 444.
2. Đại Nam Nhất Thống Chí, tỉnh Quảng Bình, tập số 9, Nha Văn Hoá Bộ Quốc Gia Giáo Dục, Sàigòn, 1961, tr 141.
2bis. Dẫn theo Nguyễn Đức Cung, Quảng Bình, 900 năm nhìn lại, nxb Nhật Lệ, USA, 2006, tr 294.
3. Đại Nam Thực Lục, nxb Giáo Dục, Hà Nội, 2001, tr 36.
4. Đại Nam Nhất Thống Chí, Tập 2, nxb Thuận Hoá, Huế, 2006, tr 8.
5. Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, nxb Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1998, q. 18, tr 214.
6. Thực Lục, Sđd, tr 41.
7. Thực Lục, Sđd, tr 43,
8. Thực Lục, Sđd, tr 43.
9. Thực Lục, Sđd, tr 43
10. Nguyễn Đức Cung, Sđd, tr 285.
11. Lê Quý Đôn, Phủ Biên Tạp Lục, Phủ Quốc Vụ Khanh Đặc Trách Văn Hoá, Sàigòn 1973, tr 444.
12. Hoàng Đình Hiếu, Sông Gianh, Đàng Trong, Giáo Hạt Quảng Bình, Tủ Sách Sông Gianh, Quê Hương Bọ Mạ xb, USA, 2004, Chương Hai : Lịch sử Truyền Giáo tại Giáo Hạt Quảng Bình, tr 107.
13. Thực Lục, Sđd, tr 88 và Toàn Thư, Sđd, tr 290.
14. Trần Gia Phụng, Nhà Tây Sơn, nxb Non Nước, Toronto, Canada, 2005, tr 33, ct # 1.
15. Tạ Chí Đại Trường, Thần, Người và Đất Việt, nxb Văn Nghệ, California, USA, 1989, tr 217.
16. Nguyễn Đức Cung, Sđd, tr 291.