Trần Thanh Hà
vannghesongcuulong
Tôi rất thích câu của Đặng
Tiến trong Vũ trụ thơ khi viết về Nguyễn Du như sau : Nghệ
thuật là những gì còn lại khi định mệnh bị bôi xóa. Quả đúng như vậy, điều
làm nên sự bất tử của người nghệ sĩ là những gì họ để lại cho đời, cho dù để
tạo nên những kiệt tác không chỉ bằng trí tuệ, tài năng, cảm xúc mà còn có cả
máu, nước mắt và biết bao hệ lụy của một cuộc đời. Hữu Loan và bài thơ Màu
tím hoa sim là một hiện tượng như thế.
Hữu Loan tên đầy đủ là Nguyễn
Hữu Loan, sinh năm 1916 quê ở Nga Sơn, Thanh Hóa. Bài thơ Màu tím hoa
sim được sáng tác năm 1949 khi người vợ trẻ của ông, bà Đỗ Thị Lệ
Ninh, qua đời. Lần đầu tiên thi phẩm xuất hiện trên tờ Trăm Hoa
của Nguyễn Bính và mãi đến năm 1990 mới được in trong tập thơ cùng tên của Hữu
Loan. Phận số của thi nhân và bài thơ cũng trái ngang như câu chuyện tình yêu
trong tác phẩm. Nhưng xưa nay cái đẹp có thể bị quên lãng chứ không bao giờ bị
tiêu diệt. Màu tím hoa sim đã khẳng định sức sống của nó bởi
đơn thuần bài thơ không chỉ là hoàn cảnh cá nhân mà nó đã trở thành một biểu
tượng của tình yêu và cái đẹp, chiến tranh và mất mát chia lìa, khát vọng hạnh
phúc và bi kịch đời người…
Viết về người thật, việc thật
nên tình cảm của nhân vật trữ tình ngập kín trang thơ. Bài thơ là một trời tâm
trạng. Từ những ngày quen nhau tình yêu thầm lặng, thiết tha, êm đềm và giản dị
như tình anh em; rồi đến phút giây hân hoan, vui sướng trong ngày hợp hôn; Và
biết bao âu lo, nhớ thương trong tháng ngày xa cách; để khoảnh khắc bàng hoàng
khi nhận tin người vợ hiền đã mất biến thành xa xót theo suốt một đời…Những xúc
cảm đối lập, trái chiều tiếp nối như diễn tả tâm trạng khó thể nói hết thành
lời của một người từ thiên đường ngọt mật rơi xuống đáy sâu của chín tầng địa
ngục. Cuộc đời, tình yêu, hạnh phúc phút chốc vụt khỏi tầm tay, còn rớt rơi lại
một cành hoa tím ghi dấu một thời. Bài thơ là tiếng khóc, là thương đau nhưng
không bi lụy vì nước mắt của tình yêu tan vỡ đã vẽ thành một loài hoa. Hoa sim
trong thực tại bước vào trang thơ và trở thành một biểu tượng tình yêu. Hữu
Loan không ví von tình yêu là những đóa hồng kiêu sa lộng lẫy mà chỉ là một
bông hoa rừng đơn sơ khiêm nhường. Vẻ đẹp riêng biệt của loài hoa dại này đến
từ cái mỏng manh như tình yêu ngắn ngủi, đến từ cái màu tím làm xao xuyến lòng
người và đến từ một sức sống mãnh liệt khi nó bất chấp cảnh hoang vu của núi
rừng, khô cằn của sỏi đá, khắc nghiệt của thời tiết để dâng hoa cho đời. Bài
thơ diễn tả những cung bậc tình cảm tăng dần tới đỉnh điểm nỗi đau khi trái tim
vỡ òa ngàn mảnh gửi trong từng cánh sim tím ngát trong chiều hoang biền biệt.
Màu hoa sim ở đây là một nguồn mỹ cảm vì nó trở thành sắc màu thời gian, sắc
màu thương nhớ. Dư âm của tình yêu, của cái đẹp và của niềm đau xót tràn trề
suốt bài thơ tạo nên một sắc tím thủy chung, u buồn; bạt ngàn núi đồi, trùng
trùng tiếc nuối…
Bài thơ ra đời khi mảnh khăn
tang còn trĩu nặng, khi nước mắt chưa khô nên lời thơ bật ra từ trái tim nát
tan rất chân thành, rất thực và điều làm thổn thức tâm hồn người đọc cũng chính
từ điều rất thực đó. Vậy nên, nhịp điệu câu chữ trong thi phẩm gắn chặt với cảm
xúc của nhân vật trữ tình. Thể thơ tự do tạo ra một hiệu quả thẩm mỹ trong việc
bộc lộ tâm trạng. Nếu có thể chia bài thơ thành ba đoạn với các nội dung : phần
1- kể vê tình duyên của chàng vệ quốc; phần 2 - kể về cái chết của người vợ
trẻ; phần 3 - niềm đau khôn nguôi của nhân vật trữ tình thì cách tổ chức các
câu thơ có nhịp điệu tương ứng. Cụ thể như sau : Phần 1chủ yếu tác giả sử dụng
thể thơ 5 chữ diễn tả tâm trạng vui tươi hạnh phúc của đôi vợ chồng trẻ, nhịp
thơ nhanh còn thể hiện không khí khẩn trương của lễ thành hôn diễn ra trong đợt
nghỉ phép ngắn ngủi của người chiến sĩ. Đó còn là sự ra đi vội vàng của hạnh
phúc. Ở phần 2, việc xen kẽ giữa câu thơ 2 chữ, 3 chữ và những dòng thơ 7, 8
chữ thể hiện thật sâu sắc cái trái ngang, trớ trêu của phận số và đồng thời
cũng bộc lộ tâm trạng bàng hoàng, đau đớn của tác giả. Đến phần 3, nhà thơ sử
dụng chủ yếu những câu thơ 7, 8, 9 chữ tạo nên dư âm da diết, buồn thương, âm
hưởng câu thơ kéo dài như niềm tiếc nuối vô bờ. Những câu thơ dàn trải làm nên
một không gian mênh mang của những đồi hoa sim dài trong chiều không hết và một
thời gian bất tận của những ngày hành quân.
Màu tím hoa sim
hay không chỉ bởi những xúc cảm chân thành mà cái hay đến từ thi phẩm còn bởi
nó gắn kết hài hòa tính tự sự, tính kịch và tính nhạc. Đây là điều mà hiếm nhà
thơ nào cùng thời với Hữu Loan làm được. Trước hết, Màu tím hoa sim
là một câu chuyện tình lãng mạn của một người lính kể về tình duyên của mình
trên chặng đường hành quân. Đối tượng tự sự được giới thiệu ngắn gọn mà đây đủ
: tôi và nàng, hoàn cảnh, tình cảm :
Nàng có ba người anh đi
bộ đội
Những em nàng
Có em chưa biết nói
Khi tóc nàng xanh xanh
Tôi người Vệ quốc quân
Xa gia đình
Yêu nàng như tình yêu em
gái
Câu chuyện của những anh lính
san sẻ cho nhau trong rừng hoang sương muối, trong phút giây chờ giặc tới không
chỉ nối kết tình đồng đội hay mong ước vợi bớt cô đơn mà còn như lời trối trăn
cho chút yêu thương để lại cõi đời khi không biết ngày mai ai còn, ai mất. Vậy
nên, đó là những gì riêng tư sâu kín nhất, chân thành nhất…phải chăng cũng vì
lẽ đó mà bài thơ đã phải chịu bao nỗi long đong và không ít lời chỉ trích khi
nó ra đời?
Tính chất tự sự của bài thơ
được thể hiện qua những sự kiện quan trọng mang dấu ấn đậm nét theo trình tự
thi phẩm. Đó cũng là cách kể của những ai khi mất mát người thân. Ta đã từng
bắt gặp lối kể này trong thi phẩm Khóc Dương Khuê của cụ Tam
Nguyên. Những sự kiện tái hiện trong kí ức lần lượt hiển hiện trên trang thơ
vừa bộc lộ tâm trạng buồn đau trước sự mất mát không gì bù đắp nổi vừa vừa là
những kỷ niệm đẹp đến tàn nhẫn của quá khứ khoét sâu vào mất mát hiện tại. Với
Hữu Loan, quá khứ là màu áo tím dịu dàng, là mái tóc xanh người thiếu nữ, là nụ
cười xinh xinh rạng ngời hạnh phúc của giai nhân và còn là vết bùn đất hành
quân trên đôi giày người lính trẻ...
Ngày hợp hôn
Nàng không đòi may áo mới
Tôi mặc đồ quân nhân
Đôi giày đinh
Bết bùn đất hành quân
Nàng cười xinh xinh
Bên anh chồng độc đáo.
Cái xinh xinh và độc
đáo được đặt trong tương quan với quân nhân, giày đinh, hành quân
– Tình yêu nảy nở và chịu thử thách trong thời chinh chiến. Các từ ngữ kết hợp
lạ lùng báo hiệu những bất trắc, éo le không thể tránh thoát của con người. Bất
ngờ sẽ xảy ra, chiến tranh là đồng nghĩa với mất mát, chết chóc, thương đau.
Theo logic bình thường thì người nơi chiến trận ắt sẽ phải chịu nhiều nguy
hiểm. Nhưng cái bất ngờ của bất ngờ là không chết người trai khói lửa mà chết
người gái nhỏ hậu phương. Cái chết ập đến quá nhanh đã tạo ra kịch tính trong
thi phẩm. Tính kịch trong bài thơ thể hiện qua nhiều mâu thuẫn, trái ngang bám
theo con người; trớ trêu do con tạo bày ra như khẳng định chân lý ngàn đời :
Con người có đủ sức mạnh, niềm tin, nghị lực để vượt qua tất cả nhưng không thể
vượt qua định mệnh. Bài thơ xất hiện nhiều hình ảnh, sự kiện đối nhau chan chát
: Từ chiến khu xa / nhớ về ái ngại / lấy chồng thời chiến
binh / mấy người đi trở lại >< nhưng không chết / người
trai khói lửa / mà chết / người gái nhỏ hậu phương; Má
tôi ngồi >< bên mộ con đầy bóng tối; Chiếc bình hoa
ngày cưới >< thành bình hương; Ba người anh trên chiến
trường Đông Bắc / được tin em gái mất >< trước tin em
lấy chồng…Nhưng cái bi đát hơn cả của con người là những niềm mơ ước giản
dị đôi lúc lại trở nên quá xa vời không thể nắm bắt, cái ta có mà tuột mất tự
bao giờ. Như người con gái ấy chờ mong hạnh phúc, khát khao tình yêu và ngày
trọng đại nhất một đời nàng cũng không đòi may áo mới; thế mà, người chồng sau
lễ thành hôn phải ra trận; từng đêm trông chồng đã kết thúc bằng nấm mồ tàn
lạnh. Còn người lính chiến chợt nghe câu ca dao xưa để nhận ra nỗi bẽ bàng của
tình duyên : Áo anh sứt chỉ đường tà / vợ anh mất sớm mẹ già chưa
khâu. Không phải là câu ca tình tứ thủa nào của chàng trai mượn sợi chỉ vá
áo để kết duyên tơ hồng mà câu ca dao khi mang vào bài thơ nó được chứa đựng
thêm nghĩa mới. Áo sứt chỉ như tình yêu dở dang, như cuộc đời đứt đoạn, như vết
thương không được vá…vì thế cuối bài hình ảnh này được Hữu Loan lặp lại ở mức
độ cao hơn :
Tôi ví vọng về đâu
Tôi với vọng về đâu
Áo anh nát chỉ dù lâu.
Dù lâu mà vết thương chẳng
nguôi ngoai, đường chỉ nát là sự côi cút của một con người, cái trơ trọi của
kiếp sống được thể hiện qua câu kết hẫng hụt. Nhưng người đọc có thể cảm nhận
được tâm tư người viết qua cái kết mở ấy. Nếu như lời ca dao xưa Áo anh sứt
chỉ đã lâu bộc lộ niềm mong mỏi hạnh phúc đôi lứa khi thấy cần Mai
mượn cô ấy về khâu cho giùm; còn với Hữu Loan, dư âm nỗi đau còn vọng mãi
theo thời gian mà thời gian không phải được đo bằng ngày, tháng, năm mà trở
thành vô hạn được ghi dấu bằng bội số của chỉ nát và dù lâu.
Trong cái bội số của thời gian ấy niềm hy vọng tàn lụi, dù hy vọng mong manh
đến nỗi không thể gọi tên là hy vọng mà chỉ là ví vọng, với vọng; và
có cố thắp lên một niềm tin bé nhỏ nhưng cũng chẳng biết gửi vào đâu…Ba câu kết
ngẩn ngơ và dang dở đã kết thúc một cách hoàn hảo mối tình ngắn ngủi và thương
tâm của thi sĩ. Nhưng hơn là một bi kịch cá nhân. Bài thơ gây xúc động cho
người đọc bởi nó chứa đựng bi kịch muôn đời của thân phận làm người. Đó là sự
đối chọi không khoan nhượng giữa khát vọng và hiện thực; giữa sự sống và cái
chết; giữa tình yêu và định mệnh…Mà trong đó bao giờ giai nhân cũng mang một dự
cảm chẳng lành về phận số. Màu tím người con gái yêu thích như nhuốm màu thiên
định :
Ngày xưa nàng yêu hoa sim
tím
Áo nàng màu tím hoa sim
Ngày xưa
Một mình đèn khuya
Bóng nhỏ
Nàng vá cho chồng tấm áo
Ngày xưa
Một đoạn thơ thật lạ so với
toàn bài, bởi Ngày xưa được nhắc đến 3 lần. Ngày xưa không chỉ là kí
ức chứa đựng thời gian mà còn như khắc họa một vẻ đẹp ngàn đời của người thiếu
phụ. Hình ảnh đêm khuya ngồi may áo cho chồng xuất hiện trong ca dao, trong thơ
Trung đại là biểu tượng của người phụ nữ Việt Nam với phẩm chất cần cù, chịu
thương chịu khó, khéo léo và đầy tình yêu thương…nhưng cũng là bao kiếp đời bạc
mệnh của ngày xa xưa đó. Người con gái hiện lên qua đoạn thơ như một đóa sim
rừng dịu hiền, nhỏ nhoi và mong manh quá! Làm sao cành hoa ấy chống chọi được
bão tố cuộc đời? Đây còn là sự trùng hợp kỳ lạ giữa hiện thực và huyền thoại.
Hữu Loan viết về những kỷ niệm có thật nhưng bản thân người thiếu phụ đã tự vận
vào người cái phù du, hư ảo của kiếp sống để tạo thành một giấc mộng buồn.
Huyền thoại về nàng tiên nữ xuống trần gian được hóa thân vào một loài hoa, câu
chuyện về sự tích loài hoa tím đã mang đến cho bài thơ sắc màu liêu trai, huyền
ảo. Và từ đó, trên bước đường hành quân, những đồi hoa sim trở thành nỗi ám ảnh
như ẩn hiện dáng hình người vợ đã qua đời. Năm lần Hữu Loan viết về đồi sim với
năm cung bậc khác nhau tạo thành một mảng màu ấn tượng với chỉ gam màu duy nhất
:
Chiều hành quân
Qua những đồi hoa sim
Những đồi hoa sim
Những đồi hoa sim dài
trong chiều không hết
Màu tím hoa sim
Tím chiều hoang biền
biệt…
Chiều hoang tím có chiều
hoang biết
Chiều hoang tím tím thêm
màu da diết…
Màu tím hoa sim tím tình
trang lệ rớm
Tím tình ơi lệ ứa
Ráng vàng ma và sừng rúc
điệu quân hành
Vang vọng chập chờn theo
bóng những binh đoàn
Biền biệt hành binh vào
thăm thẳm chiều hoang màu tím.
Chiều tím, hoa tím – tím cả
không gian, tím cả hồn người. Điệp ngữ Những đồi hoa sim vừa có tính
tạo hình khi vẽ nên một không gian dài rộng lại vừa là một biểu tượng nghệ
thuật mang giá trị thẩm mỹ cao. Bởi, cái hữu hình Những đồi hoa sim tím
đã biến thành cái vô hình Tím màu da diết; từ sắc màu cụ thể màu tím
đã trở thành màu biểu trưng cho tình yêu, cho tâm hồn, cho nỗi lòng thi nhân
khi nó biến thành màu của xúc cảm : Tím tình trang lệ rớm, Tím tình ơi lệ
ứa. Và sắc màu ấy cộng hưởng với bóng tối, ráng vàng ma khiến cho
chiều hoang càng thêm vắng, hồn hoang càng thêm lạnh.
Màu tím hoa sim
còn là bài thơ đầy âm hưởng. Giai điệu của thi phẩm được cất lên nhờ nhịp điệu
linh hoạt của bài thơ. Cách tổ chức câu chữ trong từng phần và việc phối thanh
hài hòa khiến người đọc có thể cảm nhận kết cấu toàn bài như một bản sonate
hoàn chỉnh với khúc dạo đầu bay bổng nhịp nhàng của kèn clarinette ( thanh âm
nhịp nhàng của thể thơ 5 chữ; cảm xúc rộn ràng, náo nức của ngày hợp hôn); đoạn
giữa là sự phối thanh trái chiều của tiếng kèn trompette vang rền như khúc
tráng ca và âm thanh lắng đọng, bi thương của tiếng dương cầm cùng điệu khoan
nhặt, réo rắt tiếng vĩ cầm ( đó là bè trầm trong phút giây câm lặng của hình
ảnh người mẹ ngồi bên mộ con đầy bóng tối, đó là những cơn sóng cuộn xé trong
lòng thi nhân khi phút giây cuối không được thấy mặt nhau, đó là sự trào dâng
trước nghịch cảnh của những người anh khi biết tin em gái mất trước tin em lấy
chồng) ; và kết thúc là một bè trầm sâu lắng diết da của tiếng đàn alto hòa âm
cùng tiếng dương cầm hiu hắt ( thanh âm lan tỏa từ những câu thơ dàn trải, từ
những điệp khúc lặp mãi không thôi, từ nỗi lòng ngập tràn thương nhớ; có thể
xem những đồi hoa sim là nền như tiếng dương cầm đệm lót cho tiếng đàn alto
vang ngân – tiếng đàn ấy là khúc nhạc lòng của người quân nhân nức nở, nghẹn
ngào, bi thiết). Giai điệu của thi phẩm còn được ngân lên nhờ tác giả đã sử
dụng các từ láy kết hợp với phép nhấn rất hiệu quả. Nếu đoạn 1 là Tóc nàng
xanh xanh, cười xinh xinh thì đoạn 2 là Ngày xưa, màu sim tím và
đoạn 3 là Những đồi hoa sim, chiều hoang biền biệt…Đặc biệt đoạn thơ
cuối cách lặp tữ ngữ, cú pháp với tần số cao đã tạo thành một điệp khúc gây ấn
tượng mạnh với độc giả. Điều này có thể lý giải vì sao sau khi bài thơ của Hữu
Loan ra đời đã có đến 3 nhạc sĩ phổ nhạc cho thi phẩm.( Phạm Duy, Anh Bằng và
Dzũng Chinh).
Cái đẹp của Màu tím
hoa sim có được nhờ nó hội tụ được nhiều giá trị. Việc kết hợp giữa tự
sự và trữ tình, tính thơ, tính nhạc và tính kịch đã biến bài thơ trở thành một
siêu phẩm và vì thế nó cũng trở thành siêu giá trị. Phải chăng vì lẽ đó nó là
bài thơ đầu tiên được mua bản quyền bởi một doanh nghiệp với giá 100 triệu.
Nhưng có lẽ giá trị hơn, cao đẹp hơn là sắc tím không bao giờ tàn phai, sắc màu
của tình yêu, sắc màu vĩnh cửu.