Đinh Lê Na
“Thành phố” là một khái niệm không mới,
có thể nói là đã xuất hiện cùng với đời sống con người, mang khá nhiều ý nghĩa
đặc biệt.
Trong tiếng Anh, có nhiều từ được
dùng để chỉ thành phố hay những nơi tập trung đông dân cư như: city, town,
urban hay polis,… mà thích hợp với từng trường hợp khác nhau sẽ có cách sử dụng
thú vị riêng. Chẳng hạn, ta hãy xoay quanh khái niệm “polis” để qua đó tìm hiểu
“thành phố” đã biến đổi như thế nào.
Theo tiếng Hy Lạp cổ, “polis” thường
được hiểu theo nghĩa “thành bang (city-state)”, là đơn vị hành chính cơ bản của
nhà nước thành bang Hy lạp cổ đại. Mỗi polis đều có một bộ máy cai trị, nơi đặt
ra các luật lệ nhà nước (political) và xây dựng quân đội nhằm mục đích bảo vệ
và xâm lăng. Mục đích này được duy trì từ lúc sơ khai đến kết thúc thời Trung Cổ
ở Châu Âu, giai đoạn hình thành chiến tranh cát cứ giữa các lãnh thổ/thành phố
với nhau. Từ đó, hình thành một số khái niệm khác như metropolis/metropolitan
(thành phố mẹ) dùng làm hình mẫu cho thành phố thuộc địa. Sang thế kỷ thứ 2, Con đường tơ lụa xuất phát
từ Hàng Châu, Trung Quốc được xem là bước ngoặt tạo dựng mối giao thương vượt
khỏi danh nghĩa quốc gia giữa các thành phố. Con đường tơ lụa trên biển, đến
phiên mình, lại mở ra hình thức thành phố mới, thành phố Cảng (Quảng Châu, TQ
thế kỷ thứ 7). Thời Phục Hưng (thế kỷ 5 đến 15) đưa thành phố trở thành cái nôi
của kiến trúc, điêu khắc, hội họa, văn học và âm nhạc. Thời cận đại là sự ra đời
của những thành phố công nghiệp, sản xuất lớn mà khởi đầu từ sự bùng nổ của hai
cuộc cách mạng khoa học. Đến ngày nay, thế kỷ 21, là thời đại của những thành
phố khổng lồ về quy mô dân số và diện tích. Một vài khái niệm mới như:
metropolis (thành phố quan trọng về kinh tế, chính trị, văn hóa của một nước
(country) hoặc cả khu vực (region), có tính kiểu mẫu); metropolitan area (vùng
thành phố (city) mở rộng ra ngoại ô (sub) và nông thôn (rural), có quan hệ chặt
chẽ với nhau về mặt kinh tế, xã hội thể hiện qua việc đáp xe vào trung tâm
(thông qua hệ thống metro) và công ăn việc làm); megalopolis (megapolis,
megaregion, mạng lưới các “metropolitan area” được kết nối với nhau chẳng hạn bằng
hệ thống tàu và đường cao tốc cực kỳ hiện đại); Global city (world city, nhấn mạnh
vào tầm ảnh hưởng của thành phố đối với hệ thống kinh tế (đặc biệt là tài
chính) toàn cầu);… đều để chỉ những vùng đô thị/thành phố như vậy.
Nhìn vào trục thời gian trên, có thể
thấy đặc trưng mỗi thời kỳ dẫn đến sự ra đời của mỗi loại thành phố mang những
cá tính khác nhau tạo nên những màu sắc không gian riêng. Jesuralem đầy màu sắc
tôn giáo của thời khai sinh đạo Cơ đốc. Singapore của những tòa nhà cao tầng
trong chính sách của thời lập quốc. Hay New York tham vọng từ những kẻ đầu tiên
khai phá nên vùng đất của hải cảng tự nhiên lớn nhất thế giới [1] Xét mặt thành
phố nói chung, thử điểm qua một vài loại thành phố trong lịch sử. Thành phố
thành bang thời kỳ đầu lịch sử với mục đích bảo vệ chống kẻ thù mang những đặc
điểm như chú trọng sức mạnh quân đội, xây tường thành cao và chắc chắn, (có thể
có) hào sâu xung quanh, kiểm soát chặt chẽ và nghiêm ngặt ra vào cổng thành. Từ
đó, mỗi thành phố cô lập như một pháo đài riêng biệt, phân chia rõ ràng ranh giới
bên trong – bên ngoài. Bên ngoài là nguy hiểm, không ai bảo vệ; bên trong là an
toàn, là tiệc tùng vui chơi, là âm nhạc và cả sự tuân thủ luật lệ. Thành phố cảng
thời khám phá thế giới (bằng tàu) được nhận ra bởi vị trí địa lý; bởi tàu thuyền
tấp nập, bởi những con người và hàng hóa từ khắp các nơi tụ về, mở ra một không
gian khác của cầu cảng, của giao thương, buôn bán, của những luồng văn hóa mới,
của không gian cởi mở. Thành phố toàn cầu (global city) ngày nay trở thành là
nơi của kết nối, là những điểm nút quan trọng tỏa đi khắp thế giới, bất chấp
biên giới địa lý quốc gia và bất chấp cả thời gian. Đó là nơi đặt trụ sở của
các tập đoàn Quốc tế, là trung tâm tài chính, văn hóa, giáo dục, công nghệ mà tầm
ảnh hưởng của nó không bao giờ giới hạn lại trong phạm vi một khu vực cụ thể
nào. Thành phố, tự nó, đã biến đổi không gian từ một cá thể cô lập, sang một cá
thể mở và một cá thể nối kết. [2]
Xét trên mật độ dân số, có thể thấy từ
một nhóm nhỏ dân cư định cư trong một thành phố nhỏ Jericho, Ả Rập, nằm gần bờ
sông Jordan từ khi trái đất kết thúc thời kỳ lạnh và hạn hán Younger Dryas,
9000 năm TCN, đến nay thành phố đã thực sự bùng nổ về dân số, là biểu hiện rõ
nét nhất của sự gia tăng dân số toàn cầu. Một số thành phố có mật độ dân số cao
như Mumbai, Ấn Độ (22,937ng/km2), Delhi, Ấn Độ (29,149 ng/km2), Seoul, Hàn Quốc
(17,288 ng/km2),… [3]. Ban đầu, phải mất 250,000 năm, dân số nhân loại mới đạt
được mức 1 tỉ người vào khoảng đầu thế kỷ 19. Hơn một thế kỷ sau đó, vào khoảng
1930, nhân số tăng gấp đôi lên tới 2 tỉ. Kể từ đó đến nay, dân số tăng nhanh
chóng: khoảng 30 năm, dân số nhân loại tăng từ 2 tỉ lên tới 3 tỉ vào năm 1960.
Tỉ thứ tư chỉ cần 14 năm và tỉ thứ năm và thứ sáu chỉ cần 13 năm và 12 năm. Giữa
thế kỷ 19, cùng với vac-xin, việc xây dựng hệ thống cống rãnh và cải thiện vệ
sinh, mà chủ yếu tập trung ở thành phố hay trung tâm đã làm giảm tỷ lệ tử vong
do dịch tả, thương hàn, tạo nên một cột mốc cho sự gia tăng dân số thế giới. Sự
gia tăng dân số nhanh chóng này, kéo theo những luồng dân di cư tập trung đến
các thành phố lớn theo cả hai hướng nội quốc gia và xuyên quốc gia
(cross-national immigration) và cũng với đó là sự mở rộng sâu quy mô thành phố:
các tòa nhà chung cư cao tầng đặc kín người, các khu ngoại ô cách trung tâm cả
chục/trăm km, các khu ổ chuột,…đặc biệt là với các thành phố ở các nước đang
phát triển. Bộ mặt thành phố nói chung đã thay đổi từ hình thức đơn giản với cư
dân địa phương, văn hóa bản địa và các vấn đề lãnh thổ được giải quyết bằng chiến
tranh sang sự xung đột và dung hòa về văn hóa, lợi ích kinh tế, quan điểm tôn
giáo với lực lượng nhập cư đa dạng; sự tranh giành giữa con người của nếp sống
cũ và quá trình đô thị hóa, sự ảnh hưởng lẫn nhau bằng chính trị và kinh tế
thay cho vũ khí,… đang diễn ra ngay trong cùng một địa điểm và thời gian [4].
---
[1] Đọc thêm “Bell, Daniel & De
Shalit, Avner, The Spirit of the Cities – Why the identity of the city matters in a global age, 2011,
Princeton university press, 360p” về cá tính của một số thành phố tiêu biểu được
đề cập.
[2] Đọc thêm “Yifu, Tuan 1977, Space and place – The perspectives of
experience, Minneapolis, University of Minnesota Press, 237p.” về sự biến đổi
không gian và địa điểm.
[3] Số liệu năm 2009, lấy theo Wikipedia
[4] Theo chương 6 “Cities and urban
life” trong “Giddens, Anthony 1938. Sociology 6th 2009. Policy press.”