Nguyễn Hưng Quốc
Trong bài “ Văn hóa và tham nhũng
”, chúng ta đã thấy vai trò quan trọng của sự tin cậy (hay tín nhiệm - trust)
trong việc hình thành một xã hội lành mạnh và trong sạch. Tin cậy cũng đồng thời
là một trong những điều kiện thiết yếu của xã hội dân sự, trong khi xã hội dân
sự lại là điều kiện thiết yếu của dân chủ. Từ đó, cũng có thể nói tin cậy là một
trong những nền tảng của dân chủ.
Trong các loại tin cậy, quan trọng
nhất là sự tin cậy đối với cơ chế. Ở Mỹ, theo các cuộc điều tra dư luận, đa số
quần chúng không tin, hoặc không hoàn toàn tin vào các chính khách, từ những
người đang cầm quyền, kể cả Tổng thống, đến các Thượng nghị sĩ và Dân biểu. Tuy
nhiên, không ai có ý định làm loạn hay toan tính lật đổ chính quyền bằng bất cứ
phương tiện gì, trừ việc sử dụng lá phiếu trong các cuộc bầu cử. Tại sao? Câu
trả lời đơn giản: Họ có thể không tin vào con người, nhưng họ tin vào cơ chế.
Tin đến độ nhiều người cho hình thức dân chủ ở Mỹ hiện nay là đỉnh cao nhất
trong lịch sử. Nó không thể hoàn hảo hơn được nữa. Đó là một trong những lý do
chính khiến một số người đi đến nhận định về cái chết của lịch sử nói chung
(the end of history).
Trong bài “ In China We (Don't)
Trust ” đăng trên The New York Times ngày 11.9.2012, Thomas L. Friedman nêu lên
một ý kiến quen thuộc: người Trung Quốc chỉ giỏi bắt chước chứ ít có khả năng sáng
tạo. Giải thích cho ý kiến ấy, người ta chỉ tay vào lãnh vực giáo dục: ở đó, học
sinh chỉ được nhồi nhét kiến thức một cách thụ động. Nhưng Friedman lại đặt câu
hỏi: Tại sao Trung Quốc vốn là một dân tộc có lịch sử vô cùng vẻ vang, đã từng
phát minh ra giấy, thuốc súng, pháo bông, la bàn… mà bây giờ lại chỉ làm được một
công việc vô cùng khiêm tốn là lắp ráp iPod cho Mỹ? Câu trả lời của Friedman
là: Điều Trung Quốc thiếu nhất hiện nay không phải là văn hóa cách tân (culture
of innovation) mà là ở một điều căn bản nhất: sự tin cậy.
Theo Friedman, chỉ ở những xã hội
con người tin cậy nhau, người ta mới cảm thấy an tâm chia sẻ ý kiến và tư tưởng
với nhau, mới chịu hợp tác với nhau một cách tích cực và lâu dài, từ đó mới dẫn
đến những sự sáng tạo bất ngờ và lớn lao. Nếu ai cũng cứ phập phồng lo sợ người
khác ăn cắp ý tưởng của mình, đâm sau lưng hay chơi gác mình, thì không thể có
bất cứ một sự dấn thân hay cam kết trọn vẹn nào. Ở Trung Quốc hiện nay, có tình
trạng là mạnh ai nấy làm, mục tiêu duy nhất là những lợi tức ngắn hạn cho cá
nhân mình. Hậu quả là người ta chỉ làm được những việc vùn vụn, nho nhỏ.
Friedman cũng phân tích: đó là điều
vốn xa lạ với bản chất của người Trung Quốc.
Trước, người Trung Quốc không thế.
Ngày xưa, cấu trúc xã hội Trung Quốc được đặt nền tảng trên gia đình và làng
xã, ở đó, mọi người quan tâm đến nhau và tin cậy nhau. Sau này, Trung Quốc muốn
xây dựng một cấu trúc xã hội mới dựa trên nền tảng pháp trị. Vấn đề là: họ đã
phá vỡ cấu trúc xã hội truyền thống nhưng lại chưa xây dựng được cấu trúc xã hội
hiện đại. Thành ra, xã hội Trung Quốc hiện nay đang ở trong một khoảng trống khủng
khiếp. Hậu quả của nó là sự biến mất của lòng tin cậy đối với nhau.
Những gì đang diễn ra ở Trung Quốc
cũng đang diễn ra tại Việt Nam. Văn hóa truyền thống Việt Nam dựa trên sự tin cậy
và tình nghĩa đã bị phá vỡ trong khi một thứ văn hóa hiện đại đúng nghĩa lại
chưa được xây dựng. Thứ văn hóa phổ biến làm nền tảng cho sinh hoạt xã hội Việt
Nam hiện nay là văn hóa chụp giựt. Ai cũng cố chụp giựt để thỏa mãn những lợi
ích riêng tư và tức thời của mình. Trong một hoàn cảnh như thế, rất khó giữ được
sự tin cậy.
Ở Úc, tôi có một số bạn bè làm việc
trong các lãnh vực ngân hàng và kỹ thuật. Họ thường được công ty của họ cử về
Việt Nam để vận động cho một số dự án liên kết giữa Úc và Việt Nam. Mỗi một cuộc
vận động và chuẩn bị như thế có thể kéo dài cả một hai năm trời. Rồi người ta
thường về lại Úc với đôi bàn tay trắng. Phần lớn các dự án, được hình thành một
cách cực kỳ công phu và tốn kém, không thể biến thành hiện thực. Quần quật tìm
tài liệu, phỏng vấn người này người nọ, tính toán các chi tiêu và khả năng thu
nhập về sau, lập nên một kế hoạch chi tiết, rồi nộp lên Bộ liên hệ. Và chờ. Chờ
từ tháng này qua tháng khác. Cuối cùng, nhận được câu trả lời chính thức: Không
được.
Nhưng chưa hết, một thời gian sau,
người ta phát hiện: một dự án tương tự như vậy, do một công ty khác nộp, đã được
chấp nhận. Tìm hiểu, người ta phát hiện thêm một chuyện khác: dự án mới được chấp
nhận ấy, thật ra, chính là dự án mà những người bạn tôi đã hoàn tất. Té ra, các
giới chức liên hệ đã lấy ý tưởng và kế hoạch trong bản dự án ấy giao cho một
người hoặc một công ty quen biết nào đó để họ tiến hành. Công của bạn tôi hóa
thành công cốc. Tiền bạc của công ty của họ đổ ra trong mấy năm trời như muối đổ
biển.
Trước những cung cách làm việc như
thế, thật khó giữ được sự tin cậy.
Người ta không tin cậy nhà nước.
Người ta cũng không tin cậy nhau. Trong quan hệ liên cá nhân (interpersonal) giữa
người này và người khác, người ta cũng đầy nghi ngờ. Lúc nào cũng có cảm giác
là người khác lợi dụng hay lừa gạt mình. Đi mua hàng thì lúc nào cũng thấp thỏm
sợ bị bán hàng giả hoặc bán quá giá. Có việc cần vào cơ quan nhà nước thì phập
phòng lo bị bắt chẹt và bị đòi hối lộ. Trao đổi ý kiến về một dự án gì đó với đồng
nghiệp thì lại ngại người ta ăn cắp ý tưởng của mình. Đáng buồn hơn nữa: ngay
trong gia đình người ta cũng nghi ngại nhau.
Không thể xây dựng bất cứ một giá
trị bền vững nào cho xã hội và đất nước trên nền tảng của sự thiếu tin cậy trầm
trọng như vậy.
Trở ngại căn bản trên con đường hiện
đại hoá đất nước, như vậy, nằm ngay ở văn hóa: văn hóa nghi kỵ.