Mai Văn Hai
Cho tới nay đã có nhiều quan niệm khác nhau về vai trò của dòng họ
trong đời sống nông thôn. Một mặt nhiều người cho rằng dòng họ đóng một vai trò
cực kỳ quan trọng đối với con người. Theo họ, “tông tộc mới thật là hạt nhân cơ
bản của làng mạc, của xã hội, là chỗ dựa tinh thần vững chắc và vĩnh hằng của
từng cá nhân”1.
Mặt khác, một nhà nghiên cứu đã trích dẫn quan điểm trên để không tán thành.
Ông quả quyết rằng dòng họ thực ra không giữ vai trò quan trọng đến thế. Vai
trò của nó dường như đã bị phóng đại, và theo lời ông, được đặt tới một vị trí
quá mức2.
Ý kiến đặt lại vấn đề này được nêu ra vào thời điểm trước công cuộc
đổi mới kinh tế - xã hội (công trình nghiên cứu của tác giả trên xuất bản năm
1984), và dường như được xác nhận bởi thực tế đương thời. Khi ấy, trong bối
cảnh của chương trình kinh tế – xã hội của nhà nước, dòng họ như đã mất đi
nhiều chất keo gắn bó nội tại: ruộng họ (cơ sở kinh tế nuôi dưỡng sự thờ cúng
tổ tiên trong dòng họ) được tập thể hóa. Phong trào xây dựng nếp sống mới ít
nhiều xói mòn tục thờ cúng tổ tiên, và các nghi lễ thờ cũng được đơn giản hóa
đến mức ở nhiều nơi, nhiều dòng họ, chỉ các “thủ lĩnh” (tộc trưởng, chi trưởng)
làm lễ thờ cúng. Sự đứt đoạn của giáo dục chữ Hán từ đầu thế kỷ cùng những biến
đổi kinh tế - xã hội từ năm 1945 cho tới trước công cuộc đổi mới… đã khiến cho
việc dịch gia phả (thường viết bằng chữ Hán) và ghi chép gia phả bằng chữ quốc
ngữ không còn ý nghĩa như trước.
Nhưng kẻ từ khi công cuộc đổi mới kinh tế - xã hội được nhà nước
phát động năm 1986, vai trò của dòng họ dường như đang hồi sinh. Việc thờ cúng
tổ tiên được khôi phục, phong trào xây đắp mồ mả, tu sửa từ đường, biên soạn
gia phả, tộc phả và tìm về cội nguồn… diễn ra sôi nổi. Người ta thậm chí còn
quả quyết dòng họ có một nền văn hóa riêng của mình, và từ đó đưa ra khái niệm
“văn hóa dòng họ”. Nhiều người đi xa hơn nữa, lên tiếng cảnh báo về sự liên kết
dòng họ và những hệ quả tiêu cực của nó đặt ra cho pháp luật và đường lối chính
sách của Nhà nước.
Tại sao người ta lại “nhen lên một ngọn lửa đã hầu tàn” (theo lời
tác giả nói trên) của quan hệ dòng họ? Vai trò thật sự của dòng họ là gì trong
các lĩnh vực khác nhau của đời sống nông thôn? Công trình nghiên cứu này mong
muốn góp phần, dù nhỏ bé, vào nỗ lực giải đáp những câu hỏi trên. Nhằm mục đích
đó, trước hết chúng ta cần điểm lại xem vai trò của dòng họ đã được đề cập đến
như thế nào trong giới nghiên cứu khoa học xã hội từ trước tới nay.
I. DÒNG HỌ VÀ NHỮNG QUAN ĐIỂM VỀ VAI TRÒ DÒNG HỌ
1. Khái niệm dòng họ và quan hệ dòng họ
Dòng họ là toàn thể những người cùng huyết thống với nhau. Mỗi
dòng họ thường bắt nguồn từ một thủy tổ - thường là người có công “khai sơn phá
thạch”, khởi đầu cho dòng họ tại một địa vực nhất định, mặc dù khái niệm “vị
thủy tổ” có thể chỉ mang ý nghĩa hết sức tương đối. Theo thời gian, dòng họ có
thể sinh sôi nảy nở, bao gồm nhiều chi ngành, thế hệ nối tiếp thế hệ.
Nhưng dòng họ không chỉ bao gồm những người thuộc thế hệ trước mà
cả người cùng thế hệ và cùng thời với nhau, bắt nguồn từ vị thủy tổ chung. Đặc
điểm chung nhất của các dòng họ người Việt ở đồng bằng song Hồng là chế độ phụ
hệ, nghĩa là quan hệ dòng họ được tính theo người cha.
Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là người mẹ không được xét đến
trong khi tính quan hệ họ hàng. Ngoài họ nội, mỗi người còn có và duy trì quan
hệ nhất định với họ ngoại. Nói cách khác, họ hàng không chỉ bao gồm những người
cùng huyết thống, mà cả người có quan hệ thân tộc với nhau thông qua hôn nhân.
Khái niệm “quan hệ dòng họ” được sử dụng trong nghiên cứu này bao hàm
không chỉ người thuộc cùng một dòng họ, mà cả họ hàng theo nghĩa trên đây.
2. Các cách nhìn về vai trò dòng họ và quan hệ dòng họ
Như đã nêu ở trên, có thể quy các quan điểm chính về vai trò của
dòng họ và quan hệ dòng họ thành 3 nhóm chủ yếu.
a) Quan điểm thứ nhất nhấn mạnh, thậm chí phóng đại vai trò
của dòng họ và quan hệ dòng họ. Đây trước hết là sự “tự nhận thức” của nhiều
người Việt ở đồng bằng sông Hồng1. Nhưng không
riêng họ, chính quyền thực dân Pháp ở đầu thế kỷ này cũng quan niệm như vậy2.
Chính vì thế mà, vào năm 1921, chính quyền này đã thiết định cho mỗi xã cái gọi
là Hội đồng tộc biểu, bao gồm đại diện của các dòng họ, để thay thế cho
thiết chế cổ truyền là Hội đồng kỳ mục trong việc tổ chức và quản lý
làng xã. Nhưng cuộc cải cách đã thất bại, vì hội đồng của các vị đại diện các
dòng họ, cũng không thể “bảo ban” đám “dân đen” đi phu, đi lính hay cúc cung
nộp sưu, nộp thuế cho họ3.
Cho nên, sau đó, trong hai lần nữa – một vào năm 1927 và một vào năm 1941 –
chính quyền thực dân đã phải đưa ra các qui chế mới, trong đó có chiếu cố đến
các cơ cấu cổ truyền hoặc mở rộng hơn nữa việc tham gia của những người có điền
sản hoặc phẩm hàm vào bộ máy hành chính cấp cơ sở. Thất bại của cuộc cải cách
này thường được coi như một bằng chứng về sự phóng đại vai trò của dòng họ.
Tuy nhiên, sau sự kiện cải lương hương chính, trong giới nghiên
cứu vẫn không hiếm người – tuy mức độ có khác nhau, quan tâm và đánh giá cao
vai trò của dòng họ và các quan hệ dòng họ ở nông thôn. Một trong những người
tiêu biểu cho xu hướng này là Trịnh Thị Quang.
Trong một bài viết của mình, dựa trên cơ sở số liệu định lượng từ
nhiều cuộc điều tra xã hội học khác nhau, Trịnh Thị Quang cố gắng tìm hiểu vai
trò của dòng họ và quan hệ dòng họ mà tác giả gọi là “tổ chức thân tộc”. Thời
điểm được tác giả xem xét không phải quá khứ xa xưa, khi “thân tộc là hạt nhân
của nhiều quan hệ xã hội khác”1, mà là những
năm 80, tức thời kỳ quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa được thành lập. Tác giả
cho rằng quan hệ thân tộc vốn thường đảm nhận 3 chức năng: là một cộng đồng pháp
lý, một cộng đồng kinh tế, cộng đồng sinh sống, đạo đức và tôn giáo. Tác giả
chú ý xem xét những chức năng đó đã và đang biến đổi như thế nào.
Theo Trịnh Thị Quang, trong lịch sử, tổ chức thân tộc có tư cách
pháp lý rõ rang, nhưng pháp luật xã hội chủ nghĩa đã xóa bỏ vai trò đó, bãi bỏ
chế độ liên đới trách nhiệm và thay thế bằng trách nhiệm cá nhân. Như vậy, tổ
chức thân tộc đã giải thể khá triệt để ở chức năng cộng đồng pháp lý.
Về chức năng cộng đồng kinh tế của tổ chức thân tộc, tác giả xét
chế độ kế thừa theo dòng họ và sở hữu tập thể của dòng họ đối với ruộng họ và
từ đường. Trong lịch sử, gia sản được kế thừa theo nguyên tắc nội tộc. Khi chế
độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất bị bãi bỏ kể từ phong trào hợp tác hóa
nông nghiệp, chế độ thừa kế bị mất đi một cơ sở quan trọng (ruộng đất). Tuy
nhiên, nguyên tắc nội tộc trong kế thừa gia sản vẫn phổ biến. Còn về sở hữu
chung của dòng họ đối với ruộng họ và từ đường, thì phong trào hợp tác hóa cũng
xóa bỏ một cơ sở căn bản của chế độ sở hữu đó (ruộng họ), khiến nhóm người cùng
huyết thống không còn cơ sở kinh tế để duy trì những dịp liên hoan, ăn uống chè
chén khi giỗ tổ hoặc họp họ. Tuy nhiên, một hình thức hoạt động mới đã phát
sinh để thay thế cho sự mất mát đó: “Thay cho những chi phí vật chất lấy từ
ruộng họ, ao họ, các gia đình đóng góp những suất gạo, tiền như nhau. Có gia
đình còn đóng góp thêm những sản phẩm rau, đậu, thịt”2.
Về chức năng cộng đồng sinh sống, đạo đức và tôn giáo của dòng họ,
Trịnh Thị Quang phân tích sự giúp đỡ lẫn nhau giữa các thành viên trong dòng
họ, cũng như sự kiểm soát đối với hành vi của từng người, và hoạt động giỗ tổ
với tư cách một hình thức tôn giáo. Số liệu điều tra xã hội học cho phép tác
giả khẳng định rằng tuyệt đại đa số các gia đình vay tiền và thóc của họ hàng khi
túng thiếu khó khăn. Khi một gia đình có những việc lớn (làm nhà, cưới xin, ma
chay, v.v…), họ đều tìm đến sự hỗ trợ của họ hàng.
Tiếp nữa, những quy phạm đạo đức trong một dòng họ nào đó vẫn tồn
tại và có sức mạnh nhất định. Cuối cùng, như đã nêu trên, các thành viên của
một dòng họ đã sáng tạo ra một hình thức mới để thích ứng với điều kiện kinh tế
mới, và tiếp tục hoạt động thờ cúng tổ tiên chung của mình: tục “góp giỗ”.
Để kết luận, Trịnh Thị Quang khẳng định cả sự thay đổi lẫn sức
sống khá bền vững của quan hệ dòng họ trong thời kỳ hợp tác hóa nông nghiệp:
“Rõ rang nếu như chức năng cộng đồng pháp lý và kinh tế của thân tộc đã bị thủ
tiêu về cơ bản, thì chức năng cộng đồng sinh sống, đạo đức và tôn giáo vẫn sống
một cách dẻo dai, dưới nhiều dạng thức khác nhau”1.
b. Trái với quan điểm trên, nhà nghiên cứu Trần Từ đã nỗ
lực xác định lại vai trò của dòng họ qua công trình nổi tiếng và thường được
trích dẫn “Cơ cấu tổ chức của làng Việt cổ truyền ở Bắc bộ” (1984). Mặc
dù công trình này không đề cập riêng về dòng họ, nó dành số trang nhiều hơn cả
để bàn về chủ đề này so với các công trình được dẫn ra ở đây.
Dưới tiêu đề “Tập hợp người theo huyết thống: họ”, Trần Từ hiểu họ
theo một nghĩa đơn nhất là những người có quan hệ máu mủ thuộc một dòng họ.
Một mặt tác giả nhận định rằng dòng họ đóng một vai trò nhất định
trong lịch sử xây dựng làng mới: những người đầu tiên bỏ quê đi lập làng mới
thường là họ hàng với nhau, và thổ cư các gia đình thành viên thường áp sát
nhau, chiếm vị trí trung tâm trên khu đất mới1. Hơn thế nữa,
dòng họ còn đóng vai trò “một chỗ dựa tinh thần, và đôi khi chính trị nữa” (chứ
“không phải một viện trợ vật chất”) cho các thành viên2
trong làng Việt cổ truyền vốn chằng chịt vô vàn mâu thuẫn.
Theo tác giả, vai trò của dòng họ dừng lại ở đây, và “ngoài tác
dụng lịch sử ấy ra”, tác giả “chưa thấy đâu là vai trò tích cực của tổ chức họ
trong mâu thuẫn làng mạc”3.
Trần Từ triển khai nhận định của mình về vai trò không lớn, không tích cực của
dòng họ trong làng Việt ở những khía cạnh sau:
Trước hết ông cho rằng gia tộc Việt “từ lâu đã giải thể đến mức
gia đình nhỏ rồi, thậm chí trong tuyệt đại đa số các trường hợp là gia đình hạt
nhân”4 theo nghĩa “mỗi gia đình nhỏ là một bếp riêng,
với quyền sở hữu riêng và nền kinh tế riêng của mình5.
Như vậy, dòng họ không phải là một “đơn vị kinh tế”, vì các thành viên trong
một dòng họ không ăn chung, không ở chung, và không có đất đai trồng trọt cùng
sở hữu”6. Các hình thức sở hữu
công cộng của dòng họ như ruộng họ, ao họ vẫn có đấy, song chẳng đáng là bao,
hoa lợi bất quá cũng chỉ đủ dùng vào những ngày giỗ tổ, sửa sang từ đường hay
một vài sinh hoạt lặt vặt khác. Trong điều kiện đó thì “đèn nhà ai nhà nấy
rạng”: quyền lực của các vị trưởng chi trưởng tộc chỉ dừng lại ở việc tế lễ
mang tính chất tôn giáo để tưởng nhớ các thế hệ đi trước trong ngày giỗ tổ mà
thôi.
Tiếp nữa, về mặt cư trú, Trần Từ cho rằng làng Việt cổ truyền là
một đơn vị tụ cư được tập hợp chủ yếu theo quan hệ láng giềng7.
Nói cách khác, cư dân trong một làng thường chỉ là “hàng xóm”, “người làng” của
nhau. Về cơ bản, họ là những “người dưng” sống cùng với nhau. Như vậy, về mặt
cư trú thì dòng họ sống rải rác, chứ không co cụm với nhau, và người dân thường
không sống bên cạnh họ hàng của mình, mà với hàng xóm. Các hộ gia đình trong
làng xã cổ truyền đó không chỉ được tập hợp theo nguyên lí huyết thống (dòng
họ), mà còn theo nguyên lí địa vực (ngõ, xóm), nguyên lí lớp tuổi (giáp) hay
nguyên lí lợi ích và tự nguyện (phe, hội, phường…). Qua các mắt xích trong mạng
lưới các quan hệ chằng chéo ấy người ta thấy rằng các quan hệ dòng họ đã bị hòa
lẫn, nếu không muốn nói là bị chìm lấp sau các quan hệ xã hội khác.
Cuối cùng, theo Trần Từ, cùng với việc tư hữu hóa ruộng đất, cư
dân trong các làng mạc cổ truyền ở đồng bằng và trung du Bắc Bộ, cũng từ lâu
rồi, đã phân hóa thành những giai cấp và tầng lớp đối đầu nhau thực sự. Sự khác
biệt về uy tín, quyền lực và tài sản không chỉ tồn tại trong các xóm ngõ, trong
các phe giáp hay phường hội, mà tiếc thay, còn xuyên thấm vào cả trong các quan
hệ huyết thống. Bản thân dòng họ “đã là một cái túi chứa mâu thuẫn rồi”. “Mâu
thuẫn giai cấp chui vào lòng tổ chức họ, đan xen rối rắm với quan hệ huyết
thống, khiến người trong cuộc đôi khi cũng không biết tình cảm họ hàng dừng lại
ở đâu, và mâu thuẫn giai cấp bắt đầu từ đâu”1. Nhiều nguồn
tư liệu, đặc biệt là trong thời kỳ cải cách ruộng đất, đã chỉ ra rằng, ngay
trong cùng một dòng họ người ta cũng không nề hà gì khi cần phát canh thu tô,
cho vay nặng lãi, thậm chí tìm cách tước đoạt, tố cáo, qui tội lẫn nhau…
Tóm lại, Trần Từ cho rằng “họ” quá lắm, cũng chỉ có thể
được xem là một dạng đặc biệt của gia đình mở rộng, mà tác dụng chính đối với
các thành phần của nó (tức các gia đình nhỏ hợp thành nó) là tạo ra niềm cộng
cảm dựa trên huyết thống2.
Theo ông, tổ chức họ và niềm cộng cảm gắn với nó vốn có vai trò quan
trọng trong các thị tộc nguyên thủy, nhưng khi chuyển sang nền kinh tế trồng
trọt ruộng nước, các gia đình nhỏ với nội dung kinh tế hoàn chỉnh đã hoạt động
như một bếp độc lập, do vậy vai trò của dòng họ phai nhạt và niềm cộng cảm “đã
hầu tàn”. Để nhen lên ngọn lửa đã hầu tàn ấy, họ cần nhiều chấ đốt: gia phả như
một “cương lĩnh” về quan hệ đồng huyết, tộc trưởng và chi trưởng như là “thủ
lĩnh”; việc thờ phụng tổ tiên và nhà thờ họ với tư cách sợi dây liên kết tôn
giáo; và ruộng họ với tư cách cơ sở kinh tế1.
Ngoài niềm cộng cảm nói trên, thì quan hệ đồng huyết, theo Trần
Từ, không còn vai trò quan trọng như bản thân người dân gán cho nó. Theo lời
tác giả, “vị trí” cao, thậm chí “quá đáng”2
của dòng họ chỉ là trong “cấu trúc hữu thức”3.
Nghĩa là dòng họ chỉ đóng vai trò hết sức quan trọng trong tâm tưởng, chứ không
phải trong hành vi thực tế của con người.
Ông lý giải “vị trí quá đáng” mà tổ chức họ chiếm lĩnh
trong “cấu trúc hữu thức” của người Việt bằng hai nguyên nhân chính:
1. Ảnh hưởng kéo dài của Nho giáo và tục thờ cúng tổ tiên.
2. Vai trò thật sự quan trọng trong sinh hoạt làng xã của một số
họ đặc biệt (họ đại khoa), và tình đoàn kết trong nội bộ của các dòng họ này.
Tuy không phải mọi thành viên của họ đại khoa đều đỗ đạt hoặc có nhiều tài sản,
nhưng “một người làm quan cả họ được nhờ”, mọi thành viên của họ vẫn được kiêng
nể4.
c) Cuối cùng, ngoài hai quan điểm trên về vai trò của dòng họ, còn
có quan điểm thứ ba, nằm giữa và dung hòa hai quan điểm đó. Đây là quan
điểm được nêu ra rất vắn tắt trong một tham luận gần đây của Trần Quốc Vượng dự
Hội nghị khoa học về văn hóa các dòng họ.
Trước hết, tác giả Trần Quốc Vượng không tán thành khuynh hướng
quá coi trọng vai trò của họ vì theo ông, đất đai (nền tảng vật chất của
nhà nông) là ruộng công của làng được chia cho các nhà dân làng (chứ không phải
cho các họ). Ruộng họ ít, và lúa thu hoạch từ đó chỉ đủ chi dùng những ngày giỗ
tổ. Như vậy, xét về mặt kinh tế học nông nghiệp cổ truyền, nhà và làng (chứ
không phải họ) mới có vai trò đáng kể.
Nhưng đồng thời Trần Quốc Vượng cho rằng khuynh hướng coi nhẹ dòng
họ - mà Trần Từ là một đại biểu – “cũng không đúng”1. Theo ông, dù
sao họ vẫn là “một đơn vị cộng cảm mà đỉnh cao bản sắc văn hóa tâm linh”
là tục thờ cúng tổ tiên. Ngoài ra, họ còn có vai trò điều tiết việc lựa
chọn bạn đời trong hôn nhân, trong khẩn hoang, trong tương trợ kinh tế và tạo
nên lực liên kết giữa các thành viên2.
II. MẤY NHẬN XÉT SƠ BỘ
Sau khi tóm lược những quan điểm của các nhà nghiên cứu khác nhau
về vai trò dòng họ và quan hệ dòng họ, chúng ta thử đi vào xem xét từng quan
điểm một.1. Tránh được những thái quá của khuynh hướng quá đề cao hoặc
quá hạ thấp vai trò dòng họ, quan điểm của Trần Quốc Vượng xem ra thỏa đáng hơn
cả. Tiếc rằng tác giả chỉ dừng ở những nhận xét chung mà không chứng minh bằng
những chứng cứ cụ thể, xác thực. Vì vậy, tuy dễ được đồng tình, nhưng với tư
cách một luận điểm khoa học, tác giả chưa thuyết phục được người đọc hoài nghi.
Người ta có thể ngả theo tác giả vì tin rằng “chân lý nằm ở khoảng giữa 2 cực
đối lập” chứ không phải vì sức thuyết phục của những bằng chứng khoa học.
2. Trong khi đó, bài viết của Trịnh Thị Quang đã
nêu rõ được vai trò của dòng họ ở thời điểm tập thể hóa nông nghiệp. Tác giả đã
xem xét dòng họ và quan hệ dòng họ như nó hiện có, và ở một mức nào đó, như nó
vốn có, rồi so sánh, chỉ ra những thay đổi và những nét ổn định của nó. Tóm
lại, tác giả phân tích vai trò của dòng họ và quan hệ dòng họ trong thế năng
động. Hơn thế nữa, quan điểm của tác giả được hậu thuẫn bằng những số liệu thực
nghiệm, bằng định lượng, thu được từ một số nghiên cứu xã hội học khác nhau
trên những địa bàn cụ thể. Nhờ thế, tác giả đã xác định được địa chỉ và thời
điểm của từng hiện tượng được mô tả. Nói cách khác, tác giả đã ít nhiều chứng
minh luận điểm của mình với các bằng chứng cụ thể. Điều lý thú là tác giả đã
nêu được một phát sinh mới của dòng họ và quan hệ dòng họ (hình thức góp giỗ)
để thay thế cho cơ sở kinh tế cũ (ruộng họ) đã bị hợp tác hóa (cố nhiên trước
đây việc góp giỗ cũng đã có, song chỉ đóng vai trò bổ sung cho nguồn hoa lợi
thu được hàng năm từ ruộng họ). Nhờ vậy người đọc thấy được rằng dòng họ và
quan hệ dòng họ có năng lực thay đổi để thích ứng với tình hình mới, và điều đó
chứng tỏ sức sống của nó.
Tuy nhiên, về mặt phương pháp luận, bài viết của Trịnh Thị Quang
có nhiều điều gây hoài nghi.
Thứ nhất, tác giả không khảo sát một hay một số làng cụ thể, mà
triển khai luận điểm của mình trên cơ sở số liệu thực nghiệm bằng định lượng ở
nhiều nơi khác nhau, rồi ghép lại thành một bức tranh chung. Mỗi làng, mỗi
trường hợp được tác giả dẫn ra làm chứng có thể xác thực, nhưng liệu nó có đại
diện cho các làng khác, trường hợp khác hay không? Câu hỏi này còn bỏ ngỏ.
Thứ hai, tác giả không cho biết phương pháp thu thập tư liệu thực
nghiệm của mình là gì. Người đọc chỉ có thể đoán rằng đó là phương pháp điều
tra xã hội học dựa trên cơ sở chọn mẫu ngẫu nhiên. Tuy vậy, số liệu này đáng
tin cậy đến đâu, thì khó lòng xác minh được. Những điểm yếu, hay khiếm khuyết
này, ở mức độ nào đấy, đã giảm sức thuyết phục trong luận điểm của Trịnh Thị
Quang.
3. Công trình nghiên cứu của Trần Từ đã gây tiếng
vang rộng rãi sau khi ra đời, và từ đó đến nay được coi là một cống hiến lớn
lao vào việc tìm hiểu làng Việt cổ truyền. Nó đã trở thành một cuốn sách “gối
đầu giường”1,
“để đời”1
không những đối với nhiều thế hệ Việt học, mà còn “thuộc vào di sản thế giới”2.
Nhiều tài liệu thực nghiệm có liên quan đến dòng họ đã xác nhận
nhiều ý kiến chính xác của Trần Từ: sự phổ biến của gia đình hạt nhân và vai
trò tương đối độc lập của nó trong sản xuất kinh tế, quan hệ láng giềng với tư
cách là một trong những nguyên lý của sự tụ cư ở làng Việt, v.v…
Với sự ra đời của công trình này, dường như đã hiển nhiên không
mấy ai tin rằng dòng họ đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong đời sống làng xã
nữa. Tuy nhiên, theo thiển ý của chúng tôi, khi đề cập đến vai trò của dòng họ,
bên cạnh nhiều nhận định sâu sắc, xác đáng, Trần Từ cũng đưa ra một số ý kiến
ít sức thuyết phục hơn và trước hết, phương pháp nghiên cứu và phương pháp để
tác giả chứng minh luận điểm của mình còn có một số điều cần bàn. Không tham
vọng đi sâu vào phân tích đúng sai trong các ý kiến của tác giả về vai trò của
dòng họ, ở đây chúng tôi chỉ giới hạn ở một số vấn đề về mặt phương pháp luận.
Có thể nêu lên những điểm sau:
a) Phương pháp nghiên cứu của nhân học và xã hội học hiện đại
thường xuất phát từ một đơn vị nghiên cứu cụ thể (gọi là “mẫu nghiên cứu”), ví
dụ một hoặc một số cộng đồng dân cư nào đó, một số lượng người được phỏng vấn
nhất định, v.v…3. Trong “Cơ cấu tổ
chức của làng Việt cổ truyền ở Bắc Bộ”, Trần Từ không chọn một làng để điều
tra cụ thể nhằm giúp bạn đọc định danh rõ ràng từng hiện tượng nào đó có thể
thấy ở đâu. Như chính tác giả thừa nhận, ông chỉ dùng một làng (làng Bằng) để
xác định những hiểu biết từ nhiều cụ già; sau đó dựa vào nhiều cụ hơn nữa để
kiểm nghiệm những gì biết được ở làng này, trên một diện rộng hơn4.
Theo lời ông, ông chưa thực sự đi điền dã tại một làng nào cả, vì ngay tại làng
Bằng, ông “cũng chưa điều tra cho thực cơ bản từ đầu”1.
Do vậy, tất cả những gì Trần Từ cung cấp cho người đọc qua cuốn
sách này là những nhận xét chung, khái quát hóa từ nhiều làng, mà tách rời các
địa danh thực. Điều đó khiến người đọc quen với phương pháp nghiên cứu hiện
đại, nếu thắc mắc hoặc có câu hỏi nào đó, thì khó lòng xác minh.
Nói vắn tắt thì cách tốt nhất để không tán thành quan điểm của các
nhà nghiên cứu khác, và để nêu lên, chứng minh quan điểm của mình (ở đây là về
vai trò của dòng họ) là nên “nói có sách, mách có chứng”. Nhưng đó là điều còn
thiếu ở công trình nghiên cứu của Trần Từ.
b) Khác với xã hội học, nghiên cứu dân tộc học không chú trọng
nhiều đến số liệu định lượng dưới hình thức các con số, tỉ lệ phần trăm, v.v…
Hẳn bởi thế mà tài liệu điền dã dân tộc học mà Trần Từ dựa vào, không những
không được tác giả dẫn chứng cụ thể (như trên đã nêu), mà cơ bản hơn, không
được kiểm nghiệm bằng định lượng để xác minh những nhận xét của tác giả mang
tính phổ biến đến độ nào. Người đọc hoài nghi rất có thể ngờ vực, nhưng khó
lòng kiểm chứng tính xác thực và nhất là tính tiêu biểu, tính đại diện của
những gì tác giả nói cho họ nghe.
c) Khi chứng minh luận điểm của mình về vai trò mờ nhạt của dòng
họ trong lĩnh vực kinh tế, Trần Từ đã khoanh phạm vi xem xét của mình ở khía
cạnh “đơn vị kinh tế”. Đúng là trên tư cách đơn vị kinh tế, dòng họ không có gì
đáng kể, như Trần Từ đã nêu. Nhưng vai trò kinh tế của dòng họ không thể quy
lại gói gọn chỉ riêng ở tư cách “đơn vị kinh tế” như ông đã hạn hẹp nó. Còn có
những lĩnh vực khác trong hoạt động kinh tế mà họ có thể phát huy vai
trò của mình mà tác giả không tính tới. Sau đây trong nghiên cứu này, ta thấy
những lĩnh vực, những khía cạnh mà họ, tuy không là đơn vị kinh tế,
nhưng vẫn có vai trò kinh tế.
d) Khi đề cập đến vai trò mờ nhạt của họ và quan hệ huyết
thống trong việc hình thành các điểm tụ cư, Trần Từ chứng minh rằng gia tộc chỉ
tập hợp với nhau trong những gia đình hạt nhân1 và làng là
một đơn vị tụ cư được tập hợp chủ yếu theo quan hệ láng giềng. Do đó cư dân một
làng thường chỉ là hàng xóm của nhau. Nói cách khác, gia đình nhỏ (hoặc hạt
nhân) biệt lập với hệ thống thân tộc bao quanh, nó cô lẻ trong những gia đình
chỉ là láng giềng bên cạnh. Vì thế tác giả mới coi gia đình nhỏ (được xem là
TA) lẻ loi trong xã hội bao quanh (được xem là HQ)2.
Rất tiếc là tác giả không đặt những nhận định này của mình trên cơ
sở số liệu định lượng. Nói theo tinh thần khách quan khoa học và mềm dẻo của
chính tác giả, những cố gắng của ông khi vẽ nên bức tranh làng Việt cổ truyền
(trong đó có vai trò của dòng họ) chỉ nên coi là những giả thuyết làm việc3.
Đã là giả thuyết làm việc, thì nó cần được kiểm chứng bằng thực nghiệm một cách
cụ thể, điều mà tác giả chưa làm. Về phương diện này, đúng ra Trần Từ mới chỉ
nêu nhận xét có tính giả thuyết, mà không kiểm nghiệm, càng không hậu thuẫn
nhận xét của mình bằng số liệu định lượng. Rồi đây, trong chương về quan hệ
dòng họ trong cư trú, chúng tôi sẽ cố gắng đưa ra những số liệu thực nghiệm để
so sánh với ý kiến của Trần Từ.
Tiếp nữa, không thể phủ nhận rằng quan hệ giai cấp đã thâm nhập
vào dòng họ. Nhưng cũng không thể chối cãi được rằng mâu thuẫn giai cấp ít nhất
chưa nhập vào tới quan hệ gia đình trực huyết (cha mẹ, con cái), và cha mẹ, con
cái lớn vẫn có thể và phải liên kết với nhau trong hoạt động kinh tế, trong đời
sống chính trị, v.v… Mâu thuẫn giai cấp cũng chưa tới mức ngăn cản thành viên
của một dòng họ cư trú gần nhau.
e) Như đã nói ở trên, khi lý giải vị trí quá đáng mà dòng họ chiếm
giữ trong tâm thức người Việt, Trần Từ cho rằng đó là do vai trò của một số
dòng họ đại khoa, và điều đó kéo theo tình trạng “một người làm quan, cả họ
được nhờ”. Có điều, tác giả không hỗ trợ cho ý kiến của mình bằng tài liệu thực
nghiệm về số dòng họ đại khoa tại một làng nào đó, và bao nhiêu làng có họ đại
khoa. Có thể nói không phải làng nào và thời nào cũng có họ đại khoa; họ đại
khoa không phổ biến, như chính tác giả ghi nhận1. Như vậy,
tác giả dùng một trường hợp không hẳn điển hình để chứng minh một nhận xét khái
quát về vai trò dòng họ, khiến ý kiến của ông chưa thật sự thuyết phục.
Tóm lại, bên cạnh những ý kiến sâu sắc và xác đáng về dòng họ,
Trần Từ cũng có một vài nhận xét chưa được sự hậu thuẫn của tài liệu thực
nghiệm, nhất là bằng định lượng, và do đấy chưa thật đủ sức thuyết phục. Người
đọc quan tâm đến dòng họ rất mong muốn tác giả đưa ra những tài liệu thực
nghiệm, và nếu định lượng càng tốt, để được thuyết phục bởi nhận xét và lập
luận của tác giả, nhưng tiếc thay, điều đó lại không có.
Nói chung, hầu hết các nghiên cứu nêu trên ra đời trước công cuộc
đổi mới kinh tế - xã hội mà Nhà nước phát động năm 1986, nên không được thấy và
lường trước sự hồi sinh của dòng họ hiện nay. Thực tiễn mới này đòi hỏi những
nghiên cứu mới về vai trò của dòng họ, để bổ sung cho các nghiên cứu hiện có.
Như chính Trần Từ đã khiêm nhường tự nhận xét một cách đáng khâm phục “mỗi cố
gắng giải đáp chỉ là một giả thuyết làm việc, mà rồi đây, người đi điền dã sẽ
có dịp thay thế dưới anh sáng của tài liệu mới”2.
Lược ghi các quan điểm và thành tựu của những người đi trước, đồng thời coi đó
như những tiền đề để xuất phát, công trình của chúng tôi không có mục đích gì
hơn ngoài việc cung cấp tài liệu mới và một vài điều còn thiếu trong những
nghiên cứu hiện có về vai trò dòng họ và quan hệ dòng họ.
Cách tiếp cận của chúng tôi là không quá đi sâu vào nghiên cứu tổ
chức và bản chất của quan hệ họ hàng như các nhà nhân học thường làm. Chúng tôi
quan tâm hơn cả đến khía cạnh này: trong thực tế đời sống, dòng họ và quan hệ
dòng họ vận hành như thế nào trong các lĩnh vực khác nhau (trong cư trú, trong
hoạt động kinh tế, trong việc tổ chức quyền lực và quản lý làng xã, trong việc
tìm kiếm các niềm cộng cảm)? Không đi sâu phân tích đúng sai, càng không có ý
định phê phán các ý kiến đã thành hình, chúng tôi chỉ đơn giản làm một việc:
tiến hành khảo sát vai trò của quan hệ dòng họ ở thực địa cụ thể là hai làng
Đào Xá1
và Tứ Kỳ2 trên địa bàn dân thổ
sông Hồng, tại một thời điểm nhất định, không chỉ bằng phương pháp quan sát, mà
còn kết hợp với phương pháp thống kê và bảng hỏi dựa trên chọn mẫu ngẫu nhiên.
Mục đích của chúng tôi không gì khác hơn là giúp bạn đọc ít nhiều có dữ liệu
thực nghiệm bằng định lượng để đối chiếu với những quan niệm đã thành hình về
vai trò dòng họ và các quan hệ dòng họ. Những kết quả khảo sát ấy sẽ được lần
lượt trình bày trong các chương tiếp theo.
1.
Trần Từ, Cơ cấu tổ chức của làng Việt cổ truyền ở Bắc Bộ, Nhà xuất bản
Khoa học xã hội, Hà Nội, 1984, tr. 44.
2. Sách đã dẫn.
2. Sđd.
3. Trần Quốc Vượng, Đôi lời về văn hóa dòng họ ở Việt Nam,
trong cuốn Văn hóa các dòng họ ở Nghệ An, Nxb Nghệ An, 1997, tr. 75.
1.
Trịnh Thị Quang, Mấy vấn đề quan hệ thân tộc ở nông thôn, Tạp chí “Xã
hội học” số 2, năm 1984, tr. 47.
2. Bài đã dẫn, tr. 49.
2. Sđd.
3. Sđd.
4. Sđd, tr. 38.
5. Sđd, tr. 41.
6. Sđd.
7. Sđd, tr. 32 và 38.
2. Sđd, tr. 41.
2. Sđd, tr. 49.
3. Sđd.
4. Sđd, tr. 45.
2. Bài đã dẫn.
1.
Nguyễn Từ Chi, Góp phần nghiên cứu văn hóa và tộc người, Nhà xuất bản
Văn hóa – Thông tin. Hà Nội, 1996, tr. 572.
2. Nguyễn Từ Chi, Sđd, tr. 559.
3. Không phải ngẫu nhiên mà một bạn đọc từ xa đã đặt một câu hỏi
làm tác giả “giật mình”: “Anh đã đi điền dã tại bao nhiêu làng?” (Trần Từ, Sđd,
tr. 5).
4. Trần Từ, Sđd, tr. 6.
2. Sđd, tr. 39.
3. Sđd, tr. 9.
2. Sđd, tr. 8.
2. Tứ Kỳ (Hoàng Liệt, Thanh Trì, Hà Nội