Di tích lăng "Tử Đạo" Gia Hựu hiện nay
Báo “Lời
Thăm”, Địa phận Qui Nhơn,
số 44, Thứ Năm, 13 Nov.
1941
Huỳnh
Tảo
Trong những ngày an tịnh đời
nay, giáo nhơn cũng như người thiên hạ, mãi miết cuộc sanh tồn, kẻ lo kinh
doanh sự đời, người lo kiếm miếng cơm nuôi mình, vậy mà vẫn nhớ và biết việc
xưa dữ lắm.
Trước nhà thờ Gia Hựu, một sở
đạo lớn trong địa phận Qui Nhơn, có một ngôi mộ to, xây đắp công phu, xem đã
cổ, người ta kêu lăng “Tử Đạo”. Một lần đi ngang qua đó, tôi tò mò hỏi thăm,
thời một người trong địa sở, người coi còn trai trẻ, mà thuộc chuyện xưa nằm
lòng, kể đầu đuôi, tôi nghe lấy làm hay lắm, xin đem hiến bạn đọc một chuyện tử
đạo chưa ấn hành, coi cho biết, cũng là chuyện có ích.
Kêu lăng “Tử Đạo” vì là cái mồ
chung chôn hài cốt các bổn đạo ông bà chúng tôi bị năm “Văn Thân”, ấy là năm
1885. Năm ấy, nửa tháng 7 tây, ngoài Quảng Ngãi “Văn Thân” dậy, giết đạo, đốt
nhà, lấy của, đông lắm. Có người ngã Trà Câu trốn vô đưa tin tai nạn. Thôi, ông
bà chúng tôi đều kinh hãi bàng hoàng, tin chắc sao cũng tới mình. Tin dữ ấy bay
ra, người nào cũng thất thần, đùm đệ đem nhau rút thảy hết, chiu chít với nhau
trong khuôn viên nhà thờ đó.
Cách mươi hôm, không biết ở đâu
mà “Văn Thân” giáo, mác, họ kéo tới đông vô cùng, vây hết ngoài vòng nhà thờ.
Ban đầu, ông bà chúng tôi quyết cự. Mà tình cảnh hiểm nguy: xung quanh thành
quách không có, có mấy bờ tre với hàng rào cây lếu láo; trong vòng có tới 2.000
người; phải chi được từng ấy người tráng lực hết, thì nói gì; cái này hơn hai
phần là đàn bà, con nít. Hai phần này để mà than với khóc thì được, chớ nói võ
bị thì không. Hễ ở ngoài người ta “hê!”, trong vòng người tráng lực cầm giáo
sao chực tống ra, ở giữa thì họ khóc kể, ngó thảm thiết lắm, không ra chỗ chiến
trường.
Chịu đựng được ít ngày, một đêm
bên nghịch phóng lửa đốt mất một mặt rào. Khi ấy Cố Bửu (P. Geffroy) chánh sở,
đang ở ngoài kinh, ở nhà có Cố Dupont, còn mới và Cha Nhứt. Các chức nhắm bề
kháng không kham, bàn tính với hai ngài, xin lo rút đi vô Qui Nhơn, chớ tình
hình ngõ hiểm nghèo, e phải chết chùm không sót một người.
Hai cha thấy tình thế, thì ưng
phê ý ấy, mới ra lịch thôi kháng, sửa rút vô Qui Nhơn. Mọi người kéo hết vô nhà
thờ chịu phép giải tội chung. Rồi 2.000 con người cả nam, phụ, lão, ấu nheo
nhóc kéo ra đi. Thiệt là một đám kiệu cả thể, những người tráng lực, lớp cản
hậu, lớp diện tiền, đàn bà, con nít, lão nhược đi giữa, cả tiếng lần hột đọc kinh
dậy đàng. Không biết bên “Văn Thân” họ thấy bên này gan quá là họ sợ, hay là họ
mắc hôi của mà quên đuổi đánh. Bên ông bà chúng tôi cứ vậy đi miết tới trong gò
Hội Đức, xa đây 15 cây số, tưởng là thoát được bình an.
Ai dè qua khỏi dốc Hội Đức, bên
kia thôi người ta thiên vạn, giáo, mác lớp thấp lớp cao nghiêng qua ngã lại
hằng hà như một rừng cây, trống giục, còi ru, mõ khắc, lịnh troan, inh ỏi một
góc trời. Ôi thôi! Ông bà chúng tôi rụng rời tay chơn, tấn thối cái nào cũng
khó bề. Bấy giờ Cố Dupont mới giảng khuyên mọi người mạnh gan dung mạng mình
làm của lễ Chúa. Ngài khuyên lơn an ủi chung mọi người bảo xem gương Cha, rồi
ngài bước tới bước xa quỳ gối chắp tay, ngửa mặt lên trời cầu nguyện, tỏ dấu
nạp mình chịu tử đạo. Đảng “Văn Thân” thấy vậy họ tuôn tới, chém Cha chết tại
chỗ.
Thấy đầu Cha rơi xuống, bên ông
bà chúng tôi thảm thương, tiếng khóc dội đất, mọi người bắt chước Cha quỳ gối
sắp lớp giữa đàng chực chết. Cả ngày quân dữ gươm trần giáo nhọn kẻ chém người
đâm, ông bà chúng tôi đầu rơi, máu chảy, đoàn trước đoàn sau, tiếng rên tiếng
khóc vang trời, ước quỷ thần cũng cảm động, mà quân dữ dững dưng tận sát hết
mọi người tới nửa đêm mới thôi. Xong
rồi xúm nhau, kiếm của, áo xiêm gì nó cũng lột tuốt hết, bỏ nằm trần ngỗn ngang
chồng chất trên đàng vậy tới hai ngày. Cách hai ngày, phủ Bồng Sơn mới sức đào
hầm hai bên đàng đem giập xuống đó.
Kinh hoàng! 2.000 người ra đi không còn sót một
người!
Cách hai năm, chừng yên đâu đó, Cố Bửu về, ngài
mới xây lăng kỹ lưỡng như thấy đó, hốt hết mấy cái hầm nói trên cho vào quách
đóng hẵn hoi đem về tang.
Vậy đó mà chúng tôi ngày nay gọi là lăng “Tử
Đạo”.
Tính ra trước giặc “Văn Thân”, bổn đạo cả miền
Bồng Sơn chúng tôi là 3.000, giặc về rồi còn có 700. Quá sức!