Mai Bá Ấn
Trên thế giới có hai loại hình văn hóa chính: Văn hóa gốc nông
nghiệp (phương Đông) và Văn hóa gốc du mục (phương Tây), trong đó Việt Nam
thuộc loại hình văn hóa gốc nông nghiệp điển hình, phương Tây là loại hình văn
hóa gốc du mục điển hình, còn Trung Hoa là loại hình văn hóa nước đôi (nông
nghiệp gốc du mục). Đến bây giờ, với những thành tựu của ngành khảo cổ học, dân
tộc học, đặc biệt là công nghệ gien, Việt Nam và các nước Đông Nam Á thực sự đã
là chiếc nôi của nền văn minh lúa nước của loại hình văn hóa nông nghiệp điển
hình. Chính vì lẽ đó mà đã từ lâu, đời sống nông nghiệp, môi trường sông nước
đã ảnh hưởng rất lớn đến tính cách sống của con người Việt Nam.
Chính từ cội nguồn văn hóa mà người Việt Nam từ cách sống, cách
sinh hoạt cho đến lối nhận thức, tư duy đều chịu sự chi phối nặng nề của cội
nguồn văn hóa. Nhận thức đã thế, tư duy đã thế, tất nhiên sẽ được biểu hiện qua
ngôn ngữ. Sự biểu hiện này, xưa nay, ta dễ dàng nhìn thấy trong ngôn ngữ các
tác phẩm văn chương, đặc biệt là văn chương bình dân (văn học dân gian). Tuy
nhiên, để hiểu rõ ngọn nguồn của ngôn ngữ giao tiếp hàng ngày - loại ngôn ngữ
mà từ bình dân đến trí thức đều thường dùng, không phải ai cũng cảm nhận hết.
Trong giao tiếp thông thường, ngôn ngữ có thói quen là cứ hễ nói mà được nhiều
người công nhận, hiểu được thì tất nhiên sẽ tồn tại và lưu truyền. Nhưng khi
đem ngôn ngữ Việt đối chiếu với ngôn ngữ nước ngoài, mới thấy rằng: cái gốc văn
hóa nông nghiệp cùng môi trường sông nước đã thực sự đã tạo nên một “trường
ngôn ngữ nông nghiệp, sông nước” rất đặc thù trong giao tiếp của người Việt.
1. Ám ảnh của gốc văn hóa nông nghiệp trong ngôn ngữ Việt Nam
Là chủ nhân của nền văn minh nông nghiệp lúa nước, người Việt sống
chan hòa cùng cây cỏ tự nhiên, cùng với ruộng đồng gò bãi để tiến hành sản xuất
nông nghiệp. Từ cách nói quen thuộc trong công việc đồng áng của mình, ngôn ngữ
dần dần hình thành, vốn từ ngày càng phong phú để diễn tả mọi sự vật, sự việc
cùng những tâm tư, tình cảm con người. Cách gọi tên sự vật, hiện tượng tự nhiên
gắn liền với đất đai nông nghiệp tạo nên một ám ảnh khôn nguôi trong tâm thức
người Việt để từ đó họ vận dụng vốn liếng ngôn ngữ này vào trong giao tiếp hàng
ngày với sự chuyển nghĩa rất rõ nét và độc đáo.
1.1.Danh từ:
Khác với các dân tộc khác, khái niệm Tổ quốc, Quốc gia luôn luôn
trừu tượng, người Việt Nam nông nghiệp dùng hai yếu tố quan trọng nhất của sản
xuất nông nghiệp để chỉ Tổ quốc, Quốc gia, đó và Đất và Nước: “Đất nước Việt
Nam”. Nhưng với cư dân làm nông nghiệp lúa nước, lúc cần thiết, người Việt
lại lấy yếu tố quan trọng đầu tiên trong bốn yếu tố chính của sản xuất nông
nghiệp: Nước - Phân - Cần - Giống để gọi Quốc gia:“Nước Việt Nam”.
Từ tư tưởng hạt mầm, hạt giống của các loại cây trồng, người Việt
nâng lên để gợi dậy cả cội nguồn dân tộc: “Nòi giống Việt Nam”, “Dòng giống
Tiên Rồng”…
Nghề chính của cư dân nông nghiệp là trồng trọt, vì thế các loại
cây trồng trở thành đối tượng gắn bó suốt cả cuộc đời của người dân nông
nghiệp. Thuần dưỡng được một loài cây để phục vụ lợi ích con người đôi lúc phải
trải qua một quá trình rất dài mới nắm được đặc tính của từng loài cây để tìm
cách gieo trồng, chăm bón. Chính vì lẽ đó mà cuộc sống này, cuộc đời bao la
rộng lớn này được người Việt gọi một cách thân thương, gần gụi là: “Cây
đời”, “Vườn đời”...
Cây cối sống được, sinh trưởng được là nhờ mũ, nhờ nhựa, vậy thì
con người sống được, trưởng thành được từ nhỏ đến lớn cũng được người Việt liên
tưởng như sức sống của cây trồng theo cách nói: “Nhựa sống tràn đầy”, “Tràn
trề nhựa sống”… Rồi cái việc nhổ mạ đi cấy, mạ được nắm lại, bó thành từng
lọn, thu hoạch các loại rau, nắm lại, bó thành từng lọn, đặc biệt là thu hoạch
lúa trên đồng, bó thành từng lọn… từ đó, người Việt không ngại ngùng gọi: “Lọn
tóc”, “Bó hoa”, “Nắm xương tàn”,… Từng nhúm thóc gieo vãi trên đồng
để từ đó phát sinh cách nói “Một nhúm kiến thức còm cõi”… Đến mùa thu
hoạch lúa, để cân đong đo đếm, người nông dân dùng cái ang để đong, từ đó, cái
danh từ chỉ đơn vị đo lường này được sử dụng không phải chỉ riêng dùng cho việc
đong đo sản phẩm nông nghiệp theo cách nói rất dễ thương:“Ngủ được một ang
rồi”, …
Gieo trồng trong sản xuất nông nghiệp, tất đợi đến ngày cây cối ra
hoa, kết trái để đợi trái chín mà thu hoạch cho bỏ công cày cấy và thu về thành
quả của mình. Chính vì như vậy, người Việt xem quá trình trai gái tìm hiểu
nhau, yêu thương nhau cũng như sự vun quén để mong ngày thu hoạch, cho nên, họ
mới nói rằng: “Hoa tình yêu thơm ngát, tỏa hương”, “Trái tình ngọt liệm”,… hoặc
hiện đại hơn, ta thường nghe nói: “Sự nghiệp đổi mới của ngành giáo dục,
bước đầu đã đem lại những trái quả ngọt ngào”…
Trong sản xuất nông nghiệp thì giai đoạn cây cối làm nụ để cho hoa
cho trái là một giai đoạn khởi đầu rất quan trọng của muà thu hoạch, chính vì
lẽ đó, người Việt gọi tình cảm ban đầu là:“Nụ hoa đầu đời”, rồi cái danh
từ “nụ” này được phái sinh nghĩa để gọi “Nụ hôn đầu đời”, rồi nói: “Tuổi
thiếu niên là mầm là nụ”… “Nụ” đã vậy, còn “mầm” lại là bước khởi đầu của
quá trình sinh trưởng của hạt giống, của mầm cây, từ đó, người Việt phái sinh
nghĩa từ “mầm” thành “Mầm sống”, hoặc chỉ cho sự khởi đầu của một quá
trình về sau: “Mầm hi vọng”, “Mầm móng của tội ác”, “Gieo mầm tình yêu”,
“Hạt mầm hi vọng”…
Khi các loài rau trổ hoa mà không thu hoạch kịp, cuống hoa sẽ vượt
cao lên thành “ngồng”. Cọng ngồng nhỏ bé mà vươn lên cao vút, từ đó, người Việt
biến danh từ “ngồng” này thành định ngữ của tính từ và gọi những đứa bé nhanh
lớn, cao mà gầy là: “Cao ngồng”, “Lớn ngồng”. Rồi cũng chính cái nõn nà,
non nớt, trắng trong của những nõn chuối, nõn hoa, nõn rau, nõn cải để chỉ cái
non tươi của mầm nụ các loài cây nông nghiệp, người Việt biến danh từ “nõn”
thành từ chỉ mức độ làm định ngữ cho tính từ: “Da trắng nõn”, rồi thành
từ láy hai: “Nước da trắng nõn nà”, tách láy hai: “Trắng nõn trắng
nà”, láy bốn: “Trắng nõn nà nõn nuột” và tách láy bốn bằng cách tĩnh
lượt tính từ để biến nó thành tính từ: “Ngón tay nõn nà, bàn tay nõn nuột”…
1.2. Động từ:
Từ những chuyển động của quá trình sinh trưởng của cây cối; từ
những thao tác cụ thể, cử động cụ thể, hoạt động cụ thể, hành động cụ thể trong
từng khâu của quá trình sản xuất nông nghiệp, những động từ mang đậm yếu tố nhà
nông dần dần được chuyển nghĩa trong quá trình giao tiếp của con người. Hạt
giống, hạt mầm của các loài cây nông nghiệp ngoi lên khỏi mặt đất để bắt đầu
giai đoạn sinh trưởng, người Việt gọi là “Mọc”. Chính vì lẽ đó mà khi mặt trời
xuất hiện ở đằng đông, đỏ ửng, tròn trịa như hình một hạt đậu phộng nhô lên từ
biển, liền gọi: “Mặt trời mọc”. Những ngôi nhà mới được xây lên từ một
vùng đất hoang đang rộn ràng sự sống liền được gán ngay cho yếu tố “mọc” của
hạt mầm: “Những ngôi nhà khang trang mọc lên từ trên vùng đất đồi hoang
hóa”…
Thao tác ươm hạt, ươm cây để bắt đầu cho quá trình sinh trưởng của
cây cối nông nghiệp cũng liền sau đó đi vào ngôn ngữ giao tiếp thông thường,
chỉ những hành động không hề liên quan gì đến sự ươm trồng nông nghiệp: “Ươm
đầy mơ ước”, “Ươm đầy khát vọng”… Hoa nở rồi rụi tàn, lá xanh rồi úa héo là
chuyện của cỏ cây, vậy mà con người đã quá thì xuân liền lập tức được gán ngay
động từ này vào:“Đến thời tàn rụi”, “Đôi môi tàn úa”.
Vun thành hàng để trồng khoai, trồng rau cùng những động từ: vun
xới, vun trồng gắn chặt với thao tác nông nghiệp dần dần cũng chuyển sang để
chỉ những hành động tạo nên những thành quả trừu tượng chứ không hề còn là hàng
khoai hay luống đậu:“Có công vun trồng cho tuổi trẻ tình yêu đất nước”,
“Truyền thống lịch sử cha ông đã vun đắp cho tuổi trẻ Việt Nam tình yêu nước
thiết tha”…Vun hàng, luống lên rồi, khi ngọn khoai, ngọn rau vươn khỏi
hàng, khỏi luống, người nông dân liền phải vén lên để nó khỏi bò lan xuống
rãnh, thế rồi dần dần chuyển thành những động từ mà nghĩa của nó đã trượt rất
xa cái nghĩa nông nghiệp ban đầu: “Vun vén hạnh phúc”,… hoặc khi vun
xong, đất đã dẽ không thoát khí được, người nông dân bèn dùng cuốc chĩa xới lên
cho tơi đất để rễ cây dễ thở, những động từ này dần dần chuyển nghĩa riêng vào
giao tiếp không dính dáng gì đến chuyện khoai, rau nông nghiệp: “Chính anh
là người đã vun xới cho lý tưởng cách mạng hình thành trong lớp trẻ chúng tôi
ngày đó”. Và vân vân các động từ gốc nông nghiệp khác được chuyển vào ngôn
ngữ giao tiếp với nhiều trường nghĩa rất phong phú như: Động tác chỉ thu hoạch
kết quả:“Gặt hái thành công”, “Thu hoạch nhiều kết quả quan trọng”…; động
từ chỉ quá trình sinh trưởng của cây trái: “Nẩy mầm tình yêu”, “Nẩy nở tình
cảm”, “Tình yêu đơm hoa, kết trái”, “Đôi má ửng hồng”, “Đôi môi chín đỏ”, …; động
từ chỉ sự rơi rụng của hoa quả: “Thành quả đạt được đã bắt đầu rơi rụng”,
“Rơi rớt lại một vài ý nghĩ tiêu cực”,…
1.3. Tính từ:
So với danh từ và động từ thì tính từ mang gốc nông nghiệp xuất
hiện có vẻ ít hơn. Ngoài những trường hợp danh từ chuyển hóa thành tính từ và
từ chỉ mức độ làm định ngữ cho tính từ như đã nói phần trên, ta nhận thấy, dù
xuất hiện ít nhưng lớp từ loại này có khả năng diễn đạt khá độc đáo và sâu sắc
khi vận dụng vào ngôn ngữ giao tiếp.
Đất đai khô khan, cằn cỗi được liên tưởng và sử dụng thành: “Tâm
hồn khô khan”, “Trái tim cằn cỗi”,… ; tính từ chỉ đặc điểm, tính chất (màu
sắc, trạng thái) của cây cối được chuyển nghĩa thành: “Ánh mắt tươi xanh”,
“Nước da mơn mởn”, “Làn da tươi mát”, …
Đặc điểm tàn úa, héo rũ của cây, lá, hoa được chuyển thành: “Thân
xác héo gầy”, “Đôi môi tàn úa”, “Nụ cười xanh xao”, “Bờ môi khô quắt”…
Cái đặc điểm hành động (vất vả) và âm thanh (tạo nên giữa bùn và
nước) của người đi trên cánh đồng bùn lầy cũng được liên kết với cụm danh từ
“bùn nhơ” để chuyển nghĩa thành sự vất vả, khó khăn giữa cuộc đời tội lỗi:“Lội
bì bõm giữa bùn nhơ cuộc sống”, rồi cả đặc điểm lao động “chân lấm tay bùn”
của con người nông nghiệp cũng được vận dụng thành: “Đời nó bụi bặm và lấm
láp”, “Bụi phấn lấm láp trên đôi tay người thầy giáo”…
Sẽ còn rất nhiều người kéo dài thêm nhiều minh chứng sinh động nữa
về những từ xuất phát từ đời sống và sinh hoạt của cư dân gốc văn hóa nông
nghiệp trong ngôn ngữ giao tiếp Việt Nam. Dù đây là những minh chứng mang tính
gợi mở, nhưng ta cũng dễ dàng nhận ra rằng: chính sự ám ảnh của gốc văn hóa
nông nghiệp này đã khiến trong ngôn ngữ giao tiếp của người Việt nổi bật lên
đặc trưng là rất biểu tượng và đầy hình ảnh. Một ai đó muốn chuyển ngữ lớp từ
ngữ này sang một ngoại ngữ nào đó e sẽ rất khó khăn, có lẽ chỉ còn cách đưa
những nghĩa biểu trưng này trở về lại với nghĩa đen mà nó muốn diễn tả. Ta cứ
thử tưởng tượng dịch sang tiếng Anh những cụm từ này sẽ càng dễ thấy hơn: “gieo
mầm kiến thức”, “hạt giống cách mạng”…
Rõ ràng, chính gốc văn hóa nông nghiệp đã hằn một dấu ấn rất sâu
đậm trong tâm thức người Việt để tạo nên cả một trường ngôn ngữ sinh động và
phong phú trong tiếng Việt. Dù sao, đây mới chỉ là lớp ngôn ngữ giao tiếp thông
thường, nếu thử đi vào các tác phẩm văn chương ta sẽ còn phát hiện ra nhiều điều
thú vị nữa. Giả dụ như: “Các em mở ra những trang sách ruộng đồng/ Tôi cúi
xuống gieo vào hạt chữ” (Đoàn Vị Thượng), hoặc“Nước Việt Nam từ máu lửa/
Rũ bùn đứng dậy sáng lòa” (Nguyễn Đình Thi)… Tôi nghĩ các luận văn, luận án
về ngôn ngữ và văn học nên chăng hãy đi vào những vấn đề cụ thể này thì mới có
những đóng góp của công trình, còn cứ mãi đi vào những đề tài chung chung ắt sẽ
rơi vào những điều mà người đi trước đã nói.
2. Ám ảnh của môi trường sông nước trong ngôn ngữ Việt Nam
Cư dân Đông Nam Á cổ đại - một trong hai trung tâm hình thành sớm
nhất của loài người đang vui sống yên bình giữa một vùng đất đai ẩm thấp, rộng
lớn. Bỗng một ngày băng tan, mực nước biển dâng lên cao (khoảng 100 đến 120 mét
so với hiện nay), toàn bộ vùng đồng bằng ngập trong biển nước, để từ đó hình
thành nên vùng Ma-Lai đa đảo (là các quốc đảo Đông Nam Á hiện nay). Vậy là,
Việt Nam đối diện với biển Đông. Biển và địa hình sông nước cùng với nền văn
minh lúa nước đã trở thành một đặc điểm địa lý tự nhiên ảnh hưởng đến văn hóa Việt
- một dạng văn hóa - địa khá đặc trưng. Chính vì lẽ đó mà bên cạnh nền văn hóa
gốc nông nghiệp, môi trường sông nước đã trở thành nỗi ám ảnh đối với người dân
Việt. Điều này lý giải vì sao các nước Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam trở
thành những dân tộc có kỹ thuật chế tác các phương tiện giao thông sông nước
thủ công sớm và đa dạng so với các dân tộc khác. Các nhà khảo cổ đã khai quật
được những con thuyền buồm có niên đại cách nay trên 4.000 năm ở thềm lục địa
Đông Nam Á. Và trên thực tế, các phương tiện giao thông trên sông nước do người
Việt tạo ra, bây giờ, khó ai gọi hết tên của từng loại. Nào là bè, là mãng, là
xuồng, là thúng, là ghe, là nóp, là thuyền… Rồi trong các loại xuồng, loại
thuyền, loại ghe lại phân chia ra nhiều tiểu loại khác nhau: xuồng ba lá,
thuyền độc mộc, thuyền đuôi tôm, thuyền nan, thuyền thúng, ghe ngo, ghe bầu… Kỹ
thuật làm cầu cống thủ công để làm phương tiện giao thông qua các địa hình sông
rạch, kênh suối của người Việt cổ cũng khá đa dạng: cầu khỉ, cầu tre, cầu dừa,
cầu dây, cầu treo, cầu gỗ, cầu đá…; cống tre, cống dừa, cống gỗ, cống đá… khó
mà kể tên cho hết. Đây chính là nguyên nhân khiến cho văn hóa giao thông (văn
hóa đối phó với khoảng cách tự nhiên) của người Việt chỉ chủ yếu phát triển về
giao thông đường thủy. Giao thông đường bộ thì do gốc văn hóa làng xã của cư
dân nông nghiệp khống chế nên không thể phát triển. Mỗi làng là một vương quốc
độc lập, tự trị, tự cấp tự túc nên không hề nghĩ tới việc di chuyển xa. Dân
trong làng chỉ có từ nhà mình ra đồng làng cày cấy; lên đình làng hội họp, lễ
hội; ra chợ làng mua con cá, cái rau; lên trường làng học hành dăm ba chữ… vì
thế cho nên: “Nhất ruộng giữa đồng, nhì chồng giữa làng”, “Trâu ta ăn cỏ
đồng ta/ Đừng ham cỏ tốt mà qua đồng người”… Giao thông đường bộ không có
cơ hội phát triển, người Việt phải tận dụng tối đa môi trường giao thông sông
nước. Cho nên, làng xã Việt Nam thường hình thành bên cạnh một bến sông, mọi
quan hệ giao thương, buôn bán đều diễn ra ở bến sông. Từ đó hình thành nên
những trung tâm đông người, cho nên không lạ gì khi các đô thị Việt Nam hiện
nay đều tồn tại bên cạnh một dòng sông. Điều này cũng lý giải vì sao quá trình
hình thành ngôi nhà (văn hóa kiến trúc nhà ở) của người Việt cũng mang dấu ấn
sông nước rõ ràng đến vậy. Đầu tiên là Bè (để nổi được trên mặt nước), ngồi
trên Bè rồi thì lại chịu nắng mưa nên phải cắm cây trên bè lấy lá lợp che, nên
phát triển thành Nhà Bè. Che được nắng mưa rồi thì Bè không kín nên sàn bè
thường ngập nước, vậy là phải nghĩ ngay đến cách đối phó làm cho nước không ngập
lên, và như thế thúng, mãng, nóp, xuồng, ghe… đan bằng tre, khoét bằng gỗ ra
đời. Nước không vào được rồi thì lo việc che nắng che mưa nên thuyền mui
(thuyền có mái che) ra đời. Đây chính là Nhà thuyền (chiếc ghe bầu) của cư dân
sông nước. Nó tồn tại như một ngôi nhà di động. Ở trên thuyền, có cả bàn thờ
ông bà, bếp núc, giường ngủ, thậm chí là trồng rau, nuôi gà, nuôi heo; vợ chồng
sinh hoạt ở đó, sinh con đẻ cái ở đó, con cái học hành và lớn lên ở đó; tổ chức
cúng tổ tiên ông bà cũng ở đó. .. Cho đến khi định cư được trên đất liền, người
Việt quen ở trạng thái lênh đênh cộng với địa hình đồng bằng ẩm thấp, nên ngôi
nhà đầu tiên dựng được trên đất liền chính là Nhà sàn (Chính vì thế mà cái nền
nhà hiện nay, ta vẫn quen gọi là sàn nhà). Cho đến khi quen dần với sự định cư,
yên vị của mặt đất thì kiến trúc mái nhà Việt Nam vẫn uốn cong theo dáng con
thuyền (Mái nhà của dân Trung Hoa theo mô-típ lều của cư dân đồng cỏ du mục cho
nên mái thẳng, chỉ đến cuối đời Minh, mái nhà Trung Hoa mới có một nét uốn cong
nhẹ). Cứ nhìn vào mái đình, miếu, chùa cổ, cố cung, nhà cổ của Việt Nam ta sẽ
dễ nhận ra nét uốn cong của dáng con thuyền. Thuyền là nhà, và vì thế, con
thuyền luôn có hai con mắt để biết đi đâu về đâu. Nhìn luồng nước nào nhiều
tôm, nhiều cá để đánh bắt; đi tới bến nào để trao đổi cá tôm lấy hàng hóa khác;
mắt nhìn được nơi đâu là sóng gió, chốn nào là bình yên… Mắt con thuyền quả là
một biểu tượng đẹp, một hình tượng độc đáo của cư dân sông nước Việt Nam.
Chính môi trường sông nước đó đã hình thành nên một kho tàng đồ sộ
và đa dạng, phong phú trong ngôn ngữ giao tiếp của người Việt. Từ ngôn ngữ ra
đời gắn liền với địa hình sông nước, hoạt động trên sông nước, dần dần hình
thành nên cả một trường ngôn ngữ sông nước trong giao tiếp của người Việt.
2.1. Danh từ:
Như ta đã biết, khác với các dân
tộc khác, khái niệm về Quốc gia khá trừu tượng và khái quát, người Việt Nam
nông nghiệp lúa nước, sống giữa môi trường sông nước nên gọi Quốc gia là Đất
Nước. Và vì sống bằng nghề trồng lúa nước, nên khi cần người Việt đem yếu tố
đầu tiên của mình để đại diện cho cả Quốc gia: “Nước Việt Nam”. Từ Nước
này, tất nhiên khi dịch sang tiếng Anh phải dịch thành Nation chứ chẳng
ai dịch thành Water cho dù nó chính là Water của cư dân sông
nước. Suối chảy thành dòng, muôn dòng suối đổ về chung một dòng sông, và vì thế
mà người Việt chuyển nghĩa trong giao tiếp thành nhiều trường nghĩa mới. Khái
quát, trừu tượng, ta có: “Dòng đời”, “Dòng thời gian”, “Dòng dõi Tiên Rồng”…Suy
tư, lãng mạn ta có: “Dòng suy tư”, “Dòng suy nghĩ”, “Dòng cảm xúc”…Cụ
thể mà thiêng liêng, ta có: “Dòng người”, “Nhà Dòng”, “Dòng họ”, “Dòng tộc”,
“Dòng văn học”, “Theo dòng lịch sử”…; Hiện đại hơn, ta gọi: “Dòng sản
phẩm”, “Dòng tiền trong lưu thông”,…Bên cạnh những dòng sông lại có những
con kênh. Kênh rạch trở thành phương tiện tự nhiên được con người tận dụng để
lưu thông, vì thế, danh từ “kênh” bắt đầu biến nghĩa dần để dẫn đến những
trường nghĩa hoàn toàn lạ xa với nghĩa đen sông nước: “Ý kiến của quần chúng
cũng là một kênh phản hồi, cung cấp thông tin”, “Kênh phát thanh”, “Kênh truyền
hình”…
Về cách gọi tên phương tiện giao thông sông nước, ta nhận ra một
nét độc đáo là người Việt không gọi là “Cái” (Sự vật) mà là “Con” (sinh vật hàm
yếu tố chính là con người). Vì thế mà thuyền luôn có hai con mắt, có mũi
thuyền, có khoang (bụng thuyền) và có đuôi thuyền. Mũi thuyền hướng về trước,
nhưng “Mũi dại, lái chịu đòn” nên ta có lái thuyền, có tay chèo. Vai trò
của con thuyền đối với cư dân sông nước trở thành yếu tố gắn chặt với sự sống,
sinh hoạt muôn mặt của người dân, vì thế nó được chuyển nghĩa khá đa dang và
phong phú, đầy hình ảnh trong ngôn ngữ Việt: “Con thuyền cách mạng”, “Thuyền
hạnh phúc”, “Thuyền tình”…Thuyền đi phải đến bờ đến bến. Bờ, bến là nơi ghé
lại, nơi trú ngụ của con thuyền. Thuyền vượt trùng khơi đầy bão tố, thuyền chu
du khắp cùng sông nước đầy thác ghềnh, vực sâu, thác cao nguy hiểm… cho nên cập
được tới bờ, về được tới bến là xem như đã thành công. Chính vì thế, bến, bờ sông
nước chuyển nghĩa thành: “Bến vinh quang”, “Bến tình”, “Cập bờ hạnh phúc”;…Biển
bao la, rộng lớn, muôn trùng, cả một cuộc đời của người ngư dân gắn liền với
biển, vì thế chuyển nghĩa giao tiếp thành: “Biển đời”, “Biển người, “Bể
khổ”, “Bể tình”, “Đời là bể khổ”, …Biển với sóng gió, bão táp, phong ba…
nên trong giao tiếp ta có: “Phong ba bão táp cuộc đời”, “Sóng gió cuộc đời”,
“Cuộc đời tôi tưởng đã sóng lặng bể yên nào ngờ cuối đời lại nổi lên phong ba
bão táp”,… Sóng là một hiện tượng tự nhiên chỉ phát ra từ biển, mà một khi
cuộc đời được ví như biển lớn, thì sóng cũng trở thành hiện tượng để chuyển
sang ví von trong ngôn ngữ giao tiếp thông thường: “Làn sóng dư luận”, “Làn
sóng cách mạng dâng lên”, “Sóng tình”, “Sóng mắt em đánh đắm bao thuyền tình ái”…
Hiện đại hơn, lại có: “Sóng phát thanh”, “Sóng truyền hình”… Hãy thử
dịch sang tiếng Anh câu văn này sẽ thấy cái độc đáo của ám ảnh sông nước trong
ngôn ngữ Việt Nam:“Đảng Cộng sản Việt Nam là người lèo lái con thuyền
cách mạng Việt Nam vượt qua bao phong ba bão táp cập đến bến bờ vinh
quang”. Muốn dịch được sang tiếng Anh, nhất định ta phải chuyển nó về với nghĩa
đen mới có thể giúp cho người phương Tây hiểu được nội dung câu văn:“Đảng
cộng sản Việt Nam là người lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam vượt qua bao
khó khăn, gian khổ để đi đến thắng lợi vĩ đại cuối cùng”.
Còn đối với những phương tiện giao thông trên địa hình nhiều sông,
ngòi và kênh rạch, thì chiếc cầu trở thành yếu tố số một bên cạnh con thuyền
bơi (giao thông) trên biển, trên sông. Chính vì vai trò của chiếc cầu, cây cầu
quá quan trọng đối với giao thông của người dân sống trên địa hình sông nước
nên danh từ “Cầu” được chuyển nghĩa khá đa dạng trong ngôn ngữ giao tiếp Việt
Nam. Trừu tượng và tình cảm ta có: “Cầu tình, cầu nghĩa”, “Cầu ái, cầu ân”,
“Bắc một nhịp cầu tình nghĩa”, “Nhịp cầu duyên đôi lứa”…Cụ thể hơn, ta lại
có kiểu nói: “Chính văn học nghệ thuật đã bắc một nhịp cầu của tình đoàn kết
các dân tộc”, hoặc “Văn hóa là cầu nối để kéo gần lại hai dân tộc cách
xa nhau”,… Hiện đại hơn, lại có: “Cầu truyền hình”, “Nhịp cầu giao lưu
tình cảm”…
2.2. Động từ:
Ở phần “Ám ảnh của văn hóa gốc nông nghiệp trong ngôn ngữ Việt
Nam”, chúng tôi đã phân tích về cách gọi “Mặt trời mọc”, ở đây, trên cơ
sở một hành động cụ thể của con người sông nước là “lặn” xuống dưới mặt nước để
săn bắt thủy hải sản, người Việt đã lấy hành động này chuyển nghĩa để chỉ mặt
trời khuất xuống phía đằng Tây: “Mặt trời lặn”, cũng để chỉ sự mất dạng,
vắng mặt lâu ngày của một đối tượng: “Lặn đi một tháng sau, hắn xuất hiện”,…Nước
ngập tràn, nước dâng tràn, đầy lên, vơi xuống là những hiện tượng cụ thể,
thường xuyên trong quan sát của cư dân sông nước, nhưng khi phái sinh nghĩa
sang chỉ những vấn đề trừu tượng, người Việt đã sử dụng một cách đa dạng những
động từ này: “Tràn đầy mơ ước”,“Sức sống dâng tràn”, “Cảm xúc trào dâng”,
“Ngập tràn cảm xúc”, “Đầy tham vọng”, “Đầy ắp niềm vui”, “Ăm ắp niềm vui”,
“Hạnh phúc vơi đầy”, “Suy tư lắng xuống”, “Tình yêu vơi cạn”… Sông mang phù
sa “đắp bồi” cho cây cối tốt tươi, thành bãi để mở rộng diện tích canh tác nông
nghiệp, vì thế, động từ này khi chuyển nghĩa luôn được dùng để chỉ sự hình
thành nên những điều tốt đẹp: “Bồi đắp những tình cảm trong sáng”, “Đắp bồi
tình cảm cho nhau”,… “Xói mòn” là tác động của dòng chảy, của sóng nước làm
cho bờ bãi bị sạt lở, biển nước lấn dần vào đất, từ đó, nó được chuyển nghĩa
trong ngôn ngữ giao tiếp khi ta nói:“Đạo đức bị xói mòn”, “Xói mòn dần tình
cảm thiêng liêng của năm tháng cũ”… “Tắm” là hành động thường xuyên đối với
cư dân sông nước, đã “tắm” (ở đây là tắm sông, tắm biển chứ không phải tắm
giếng bằng cách xối từng gàu) thì phải bơi, hụp cho cả thân hình dầm trong
nước, vì thế động từ này được chuyển nghĩa rất hay trong các trường hợp: “Tắm
trong biển máu”, “Tắm trong bầu không khí lễ hội”,…“Lặn”, “lội”, “hụp” là
những động tác của con người hoạt động trong nước. Hai hành động này thường là
tốn sức lực, vất vả, vì thể khi chuyển nghĩa để diễn đạt trong giao tiếp, chúng
thường được dùng để chỉ hành động mang tính chất vát vả, phải bỏ công sức
nhiều:“Lặn lội đến đây”, “Hụp lặn giữa dòng đời”… “Đắm” và “chìm” là hai
động từ chỉ sự tác động của các hiện tượng tự nhiên (sóng, gió, bão, lốc…) đến
những con thuyền khiến nó không nổi lên mặt nước được nữa, hai động từ đơn này
ghép lại thành một cặp động từ khi chuyển sang nghĩa mới: “Đắm chìm trong
máu lửa chiến tranh”, “Chìm đắm trong suy tư”…, tương tự như vậy, ta có:
“Ngập chìm trong biển nhớ”, “Chìm vào giấc ngủ yên”… “Neo” và “đậu” là hai
động từ để chỉ hành động làm cho thuyền dừng lại, đứng yên và vì thế, người
Việt phái sinh nghĩa để nói:“Neo đậu bến tình”, “Ăn nhờ, ở đậu”…; “Lênh
đênh”, “bập bềnh”, “bềnh bồng”, “trôi nổi” là những động từ chỉ sự tác động của
sóng nước thủy triều làm cho những con thuyền không bình yên, vì thế khi chuyển
nghĩa, người Việt đã nói đầy hình ảnh rằng: “Một kiếp lênh đênh”, “Bềnh bồng
trong trong khói thuốc”, “Bập bềnh trong những điệu nhạc”, “Trôi nổi giữa dòng
đời”… Rồi “tù đọng” và “trôi chảy” là hai động từ đối lập nhau để chỉ hoạt
động những dòng sông, con suối…, khi chuyển nghĩa, những động từ này đem đến
cho chủ ngữ vốn trừu tượng, khái quát một cách biểu nghĩa đầy hình ảnh và cụ
thể: “Cuộc sống tù đọng”, “Công việc trôi chảy”… rồi kết hợp với danh từ
sông nước “Dòng”, “Suối” tạo nên cách nói: “Dòng đời trôi chảy”, “Dòng đời
trôi bất tận”, “Dòng nhạc chảy dài”, “Suối nhạc chảy dài”,… “Ngâm” là hành
động của người nông dân khi nhấn chìm một vật gì đó xuống dưới mặt nước (Ngâm
giống, ngâm mình trong nước) liền được chuyển thành cách nói khá độc đáo: “Hồ
sơ bị ngâm lâu”, “Ngâm công việc như thế bao giờ cho xong?”…
2.3. Tính từ:
Cũng như những ám ảnh trong văn hóa nông nghiệp, so với danh từ và
động từ thì tính từ trong trường ngôn ngữ sông nước cũng xuất hiện ít hơn.
“Đầy” là tính động từ chỉ mực nước, khi là tính từ “đầy” kết hợp với “đặn” để
làm nên một từ láy chỉ đặc điểm của bộ phận trên cơ thể con người: “Gương
mặt đầy đặn”,… hoặc kết hợp với “tràn”, “ngập” thành tính từ chỉ mức độ: “Tình
cảm tràn đầy”, “Ngập tràn cảm xúc”,… Đối lập với “đầy” là “cạn”, tính từ
mức độ này khi phái nghĩa cũng mang đến cách biểu đạt khá hình ảnh: “Suy
nghĩ nông cạn”, “Khô cạn tình người”, … “Nông” lại đối lập với “sâu” và vì
thế, tính từ mức độ “sâu” cũng được chuyển nghĩa sang: “Ý nghĩa sâu xa”,
“Tình yêu sâu thẳm”,… “Trong” và “đục” cũng là hai tính từ chỉ tính chất
của nước, chính vì vậy trong giao tiếp, người Việt lập tức phái sinh nghĩa để
diễn đạt tính chất, đặc điểm: “Ánh mắt trong veo”, “Quan hệ trong sáng”,…
“Dòng đời trong đục”,… Rồi đem cả trạng thái chỉ sự thuận lợi trong việc
chèo thuyền trên sông nước, trong quá trình giao tiếp, người Việt sử dụng tính
từ này để chỉ những vấn đề êm xuôi trong cuộc sống, nó kết cấu chặt chẽ thành
một câu tục ngữ: “xuôi chèo mát lái”và chuyển thành: “Công việc xuôi
chèo mát lái”…
Ngoài các từ loại như trên, ám ảnh sông nước còn tạo nên những cụm
từ diễn đạt đầy hình tượng khiến những cụm từ này mang một đặc trưng sông nước
mà khi chuyển ngữ, người dịch sẽ không ít vất vả để thể hiện cho hết nghĩa lý
của các cụm từ, ví như: “Đắm chìm trong bể khổ”, “Ngụp lặn giữa dòng đời”,
“Trôi nổi giữa phong ba”, “Lênh đênh trong sông nước cuộc đời”…
Có thể nói, thống kê ra cho hết những từ, cụm
từ, cách nói mang gốc văn hóa nông nghiệp và môi trường sông nước trong ngôn ngữ
giao tiếp Việt Nam và giảng giải đầy đủ những nghĩa biểu trưng của chúng cũng
là một việc làm cần thiết để góp phần chỉ ra sự đa dạng và phong phú của ngôn
ngữ Việt Nam; đồng thời cũng để nhìn nhận rõ ràng hơn rằng: gốc văn hóa của một
dân tộc có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình hình thành nên những đặc trưng của
ngôn ngữ dân tộc đó.