Nguyễn Xuân Xanh
I)
Thứ năm,
ngày 28/6/2012, tác phẩm Trò chuyện triết họccủa Bùi Văn Nam Sơn
được ra mắt chính thức cùng với đại diệnSàigòn Tiếp Thị, nơi đã chuyển
tải các bài viết triết lý trong tập sách trên hai năm qua, cùng với đại diện
của nxb Tri Thức và Cty Sách Thời Đại. Thành phần cử toạ không
phải chỉ là những “nhà triết học tháp ngà”, mà đến từ nhiều thành phần xã hội :
sinh viên, nhà giáo, giáo sư đại học, bác sĩ…Đó là một buổi trò truyện thú vị
hơn hai tiếng đồng hồ rất sôiđộng, chứng tỏ sự quan tâm lớn của nhiều giới đến
triết học.
Với sự tích
luỹ tám năm qua và một chuỗi công bố những tác phẩm kinhđiển của triết học cổ
điển Đức, với những cốgắng và năng lực phi thường, bắt đầu từ quyển kinhđiển Phê
phán lý tính thuần tuý của Immanual Kant năm 2004, tác phẩm triết học
thế giới đầu tiên ở Việt Nam đã đem lại cho Bùi Văn Nam Sơn giải Phan Châu
Trinh rất xứng đáng, quyển sách Trò chuyện triết họcbốn trăm
trang được viết cho đại chúng của tác giả có thể nói đánh dấu một sự kiện có ý
nghĩa trong sinh hoạt trí thức của thành phố : Triết học đã bén rễ trên mảnh
đất này.
Đọc Trò
chuyện triết học, người ta có cảm tưởng đang bước lên những bậc thang
ngày càng cao của “tháp ngà triết học”,không phải để tách rời khỏi xã hội, mà
để nhìn qua các cửa sổ thấy được thế giới nhiều hơn, xa hơn, và để trở lại hiểu
xã hội nhiều hơn. Triết học phương Tây đã từng được đưa lên trời rồi kéo
xuốngđất, nay được Bùi Văn Nam Sơn đem về Việt Nam và đưa vào tờ báo thị trường
cho công chúng. Quyển sách quáđẹp, quá hay, có tính học thuật cao mà lại bình
dị,xen lẫn với những vần thơ Việt Nam tươi mát. Bùi Văn Nam Sơn với tri thức
uyên bác đã rút ngắn được từkho báu triết học phương Tây thành những mạch văn
tài tình đượm chất nhận thức cho những người Việt Nam bình dị.
(II)
Triết học đã
ngựtrị trong văn minh phương Tây hơn 2000 năm. Nguồn gốc của nó là sự tò mò,
đặt vấn đề, với một nỗi ưu tưnhất định, về sự tồn tại của con người và thếgiới,
với lòng yêu minh triết : “Sựngạc nhiên là tháiđộ của một con người yêu mến
minh triết đích thực, vâng, không có khởi nguồn nào khác của triết học hơn là
sự khởi nguồn bằng sự ngạc nhiên này.” (Plato, Theaitetos) Hay : “Sự
ngạc nhiên khiến trước tiên con người đi đến triết lý”. (Aristote,
Metaphysik). Lúc đó triết học xuất hiện. Tò mò để rồi vươn lên nhận thức (epistime)
và ý tưởng (idea), và mỗi nhận thức triết học là một bước sự giải phóng
con người khỏi hang động vô minh (Plato). Có nhận thức thì mới có minh triết (wisdom).
Einstein có
lẽ là một thí dụ điển hình là tiếng vọng của sự ngạc nhiên nguyên thuỷ và tinh
anh vốn là bản chất của con người mà Plato và Aristote vừa nói. Ông có sức ngạc
nhiên phi thường trước cái bí ẩn, vẻ đẹp của tạo hoá, và cho rằng nếu ai “không
còn khả năng ngạc nhiên, sửng sốt trước nó, thì người đó coi như đã chết, ánh
mắt đã tắt lịm đi.” 2Chính
sự ngạc nhiên và ưu tư đã dẫn ông đến những khám phá kỳ diệu của thể kỷ.
(III)
Triết học
dính gì với cuộc đời ? Dính nhiều thứ chứ. Nó phục vụ cho“đa mục đích” của xã
hội. Triết học có tham vọng là khoa học toàn cục. Wilhelm von Humboldt cũng cho
rằng khoa học, Wissenschaft, phải là cái thống nhất, bao trùm, tức là
triết học. Con người không bao giờ hài lòng với những tri thức bị phân mảnh,
hay với những tri thứcđang có. Lý thuyết dây, hay cuộc truy tìm hạt Higgs hiện
tại cũng xuất phát từ sự tò mò vô hạn của con người về cái toàn thể.
Einstein
được xem là nhà triết học tự nhiên nổi bật trong các nhà khoa học của thế kỷ
20. Ông không phải chỉ biết làm toán bằng các công cụ toán học, mà bằng con mắt
triết học trước tiên. Einstein thấy Triết học giống như một bà mẹ đã sinh ra và
trang bị tất cả các ngành khoa học còn lại. Người ta vì thế không nên đánh giá
thấp bà mẹ ấy trong sự nghèo khổ và trần truồng, mà phải hy vọng rằng cũng vẫn
còn chút lý tưởng Don Quichote hiện thân trong lũ con của bà để chúng không trở
thành những kẻ nhỏ nhen3.
Cái gì
làm khác biệt nhà khoa học và người thợ đóng giầy, Einstein hỏi và trả lời : tư
thế triết học ở nhà khoa học làm nên sự khác biệt ; nhà khoa học phải nhắm tới
nhận thức triết học, ý tưởng hơn là chỉ có tính chất cơ học, mechanical.
Điều này cũng đúng với nhà kinh doanh.
Cũng có
thể nói tương tự về sự khác biệt giữa người thợ đóng giầy và nhà kinh doanh nói
chung. Đây chính là điểm đã làm nổi bật vị trí của báo Sàigòn Tiếp Thị:
kinh doanh bằng ý tưởng triết học khi đưa loạt bài trò chuyện triết học của Bùi
Văn Nam Sơn vào tờ báo mình. Dĩ nhiên
không chỉ có thế.
(IV)
Triết học
phương Tây bao hàm một môn học rất quan trọng, đó là tranh luận, disputation
và logic vốn thấm nhuần trong các chương trình học. Thuật hùng biện, rhetoric,
là một trong bảy môn học căn bản của giáo dục phương Tây4.
Chân lý phải được luôn luôn thử thách. Và thực tếmọi chân lý trong xã hội
phương Tây đều phải trải qua những cuộc thử thách của xã hội. Humboldt diễn tả
điều này khi nói : “Chân lý là cái mãi mãi phải đi tìm”.
Những
điều này thiếu vắng ở văn hoá phương Đông. Cái học phươngĐông nặng về học tư
liệu, documentary learning. Nhà khai sáng Nhật Bản Fukuzawa Yukichi khi
tiếp xúc văn minh phương Tây mới ngạc nhiên thấy trong xã hội Nhật Bản không có
chữ tranh luận, một thiếu sót lớn cho sự phát triển xã hội. Rồi ông tổ chức cho
sinh viên tập tranh luận công khai.
(V)
Hẳn có
lúc triết học cũng bị “lợi dụng” bởi quyền lực, như trường hợp nhà thờ công
giáo La Mã một thời gian dài đã xem triết học là con ở của thần học, một loại ý
thức hệ của nhà thờ. Nhưng theo Immanuel Kant, một cách châm biếm, con ở theo
kiểu nào, con ở “cầmđèn đi trước cho phu nhân hay nâng đuôi áo váy phía sau
cho bà, điều đó chưa biết được ; miễn là người ta không đuổi nó đi hay bịt
miệng nó lại”5,
nghĩa là cho nó đầy đủ tự do để hoạt động. Hẳn Kant muốn nói : thần học mà
không có triết học dẫnđường thì có ngày vấp ngã u đầu ! Thực thế đã diễn ra như
thế.
Cho nên
trong giáo dục đại học, Kant mới cần một khoa, là khoa triết học trong đại học,
có đủ tự do học thuật để nghiên cứu, để “có đủ năng lực phán đoán chỉtheo
các nguyên lý của tư duy”, mà “không lệ thuộc vào một mệnh lệnh từ phía
trên làm kim chỉ nam nào”, vì “chân lý (điều kiện đầu tiên và chính
yếu của học thuật)mới là cái quan trọng, mới giúp íchđược chính quyền, trong
khi tính hữu ích (của các ngành học ứng dụng) chỉlà yếu tố hàng thứ hai”.
Kant nói tiếp : “Chỉ có một yêu cầu khiêm tốn là được tự do, và chỉ tự do
thôi,để tìm ra chân lý, điều có lợi cho khoa học và cho các phân khoa khác
(ứng dụng), và chân lý đó đối với chính quyền không có gì phải nghi ngờ và
cũng không thểthiếu được.”6Thực
tế, cùng với khoa học tự nhiên, triết học từthế kỷ 17 rồi sang thời Khai Minh
thế kỷ 18, đã giải phóng mình để trở thành chủ thể của một khoa họcđộc lập.
Nhưng sự
lạm dụng triết học vẫn chưa hết ở thế kỷ 20, vin vào việc Hegel đặt nhà nước
như “Hệ thống củaĐạo đức”7,“Nhà
nước của một bộ máy công chức hợp lý tính”làm trung tâm của triết học chính
trị của ông và xem triết học là “triết học nhà nước”. Tại nhiều nơi, triết học
được sử dụng như một “công cụsang trọng” của quyền lực để biện minh,
biến thành“ý thức hệ nhà nước” chi phối toàn xã hội, cảkhoa học lẫn nhân sinh
quan của con người.
Thế kỷ
thứ 17 đã từng chứng kiến một cuộc đấu tranh cam go của giới khoa học chống lại
“chủ nghĩa đế quốc triết học”(philosophical imperialism) màđại biểu là
Galileo Galilei và Francis Bacon nhằm giành lại sự độc lập cho khoa học và học
thuật. Khoa học hiện đại đã hình thành và thoát khỏi sự bao biện của triết học
cũ.
(VI)
Ở Đức
(Phổ) vào cuối thế kỷ 18 đầu 19, triết học có vai trò trung tâm trong việc cải
tổ nhà nước và giáo dục đứng trên mảnh đất của Kant. Chưa có đất nước nào trên
thếgiới chịu ảnh hưởng sâu đậm của triết học nhưnước Đức trong sự phục hưng đất
nước từ thảm hoạlạc hậu và thất trận. Thời đó một loạt triết gia tên tuổi xuất
hiện cùng một lúc : Kant, Fichte, Schelling, Hegel. Triết học Đức giành lại độc
lập từ tay Pháp và lên ngôi. Triết học của “Chủ nghĩa duy tâm Đức”và Chủ nghĩa
tân nhân văn của giới văn học ảnh hưởng lên sự hình thành ý tưởng giáo dục đặc
thù của Đức mà Humboldt là người chấp bút thực hiện một cách dũng cảm : sự tự -
phát triển, và hoàn thiện nhân cách con người trong sự chiếm lĩnh thế giới,
vượt lên khỏi những lợi ích nghề nghiệp, kinh tế và chính trị. Con người không còn
là phương tiện, bánh xe con trong bộmáy, mà là cứu cánh tự thân, tự chủ, tự
quyết và tựlực. Giáo dục nhằm tinh luyện con người toàn diện và là điều kiện
tiên quyết của xã hội mới. Nó cũng nhắm vào việc hình thành một xã hội mới
chống lại thế giới cũ của đẳng cấp và quý tộc. Trong đại học cải cách Berlin
(Humboldt) triết học không còn là môn học dự bị, mà là sự hiện thân của “vũ trụ
tri thức”,và các nhà triết học lớn, khác hẳn trước đây và những nơi khác ở châu
Âu thế kỷ 19, đều là những giáo sư đại học. Với những ý tưởng khai phóng và có
tầm nhìn xa, đại học Đức đã làm một cuộc khai phá chưa từng thấy trong lịch sử.
Một sự liên minh giữa triết học, khoa học và văn hoá chưa từng có. Nhà triết
học cũng là nhà khoa học và văn hoá. Nhà văn hoá cũng là nhà triết học và khoa
học. Nhà khoa học cũng là nhà triết học và văn hoá. Khác Pháp nơi Napoleon tập
trung giới khoa học vào các trường khoa học ứng dụng nhiều hơn, trí thức Đức đã
nâng cao vị thế của đại học và các khoa triết học thành các trung tâm hàn lâm
và học thuật. Tất cả phải biến thành khoa học trong tinh thần triết học.8
Tại Hoa
Kỳ vào thế kỷ 18, mục đích quan trọng nhất của giáo dục đại học là nhằm giáo dục
thanh niên thành những con người có tư cách đạo đức, men of moral character.
Để làm việcđó, Francis Weyland, chủ tịch Đại học Brown cũng nhưnhững nhà giáo
dục hàng đầu khác như ông “đánh giá cao việc học triết học”. Giáo dục
triết học có nhiều mục đích : hợp nhất tất cả tri thức vào một tổng thể mạch
lạc, dễ hiểu ; để hoà giải tôn giáo và khoa học (hay ít ra để phòng ngừa khoa
học làm hại tôn giáo), và để khám phá những qui tắc đạo đức có thể truyền đến
sinh viên để ứng dụng trong đời sống cá nhân và nghề nghiệp9.
Chức danh Tiến sĩ triết học (Doctor of Philosophy, viết tắt Ph.D. ở Mỹ
hay Dr. Phil. ở Đức) của thế kỷ 18, và thông dụng thế kỷ 19, hàm chứa hai yêu
cầu : thứnhất, hiểu biết chuyên sâu về một ngành học của giáo dục đại học, và
thứ hai, năng lực hợp nhất sự tinh thông chuyên môn này vào tổng thể tri thức.
Đòi hỏi sau nhấn mạnh đến triết học.10
(VII)
Cũng có lúc triết học cũng phải bất lực,
chẳng hạn đối với những vấn đề vật lý hóc búa của nửa thế kỷ đầu 20 như thuyết
tương đối hay vật lý lượng tử. Ở đây Einstein cho rằng “Nhà vật lý không thể
đơn giản giao phó sự trăn trở về những vấnđề nền tảng có tính cách lý thuyết
cho nhà triết học ; bởi vì anh ta (nhà vật lý)biết tốt nhất và cảm thấy
rõ nhất chiếc giầy bó chỗ nào ở dưới chân.”11Dĩ nhiên khoa học và triết học bổ sung
nhau.
Những nhà vật lý thế kỷ 20, trong chừng
mực nào đó thực tế đã hoá thân thành những nhà triết học : Einstein, Planck,
Bohr, Heisenberg, Schrödinger. Khi nghe những lời than phiền tại sao thế hệ
chúng ta không có những nhà triết học lớn thì Adolf Harnack, một nhà thần học,
giáo sư tạiđại học Berlin và là chủ tịch đầu tiên Trung Tâm nghiên cứu Kaiser
Wilhelm (sau này là Max Planck) bấy giờtrả lời : có chứ,họ bây giờ không ngồi
trong phân khoa triết nữa mà ngồi trong phân khoa vật lý với những tên như
Planck, Einstein.12
(VIII)
Trò
chuyện triết học không chỉ là “bữa tiệc triết học” hoành trángđể thưởng
lãm, mà quan trọng hơn nó có tác dụng nhưmột thứ hoạt chất kích thích tư duy
nói chung, trong bối cảnh đình trệ tư duy và tinh thần bế tắc của xã hội. Tư
duy là điều kiện tiên quyết để có xã hội tri thức. Một xã hội không tư duy
triết học là nghèo nàn, như con thuyền thiếu bánh lái. Muốn làm toán phải học
toán, thì cũng thế, ở đây muốn triết lý thì phải học triết học là điều căn bản.
Triết học góp phần khai sáng đưa con người ra khỏi tình trạng “chưa trưởng
thành tự chuốc lấy” của Kant. Trong một cảnh quan ngày càng bị hoang dã hoá
thì triết học xuất hiện nhưnữ thần Athena của đức hạnh và trí tuệ, hay như
ngọnđèn minh triết của Diogenes. Triết học tự nó bao hàm minh triết, nhân sinh
quan. Một con người, hay một quốc gia, nếu không có minh triết, có nguy cơ lạc
lối.
Plutarch,
sống trong thế kỷ đầu công nguyên, nói rằng, thuốc men và thểdục phục vụ sức
khoẻ con người khi đau ốm hoặc làm cho nó khoẻ thêm. Nhưng khi tâm hồn yếu đuối
hay phiền não thì triết học là liều thuốc duy nhất cần phảiđược kê toa. Cho
nên, theo ông, cần phải đặt triết học lên hàng đầu của mọi nền văn hoá. Một xã
hội có nhiều “yếu đuối” và “phiền não” lại cần triết học hơn.
(VIII)
Ngày giới
thiệu quyển sách Trò chuyện triết học, 28/6/2012, cũng rất tình
cờ là ngày bá quyền phương bắc muốn đặt chân lên thềm biển Việt Nam để khai
thác dầu khí. Bàn vềtriết học lúc này có phải là một điều xa xỉ không ? Triết
học có dính gì đến việc chống bá quyền không, có thể có người hỏi. Có chứ. Ngay
đêm trước của trận đánh Jena 1806, nơi quân Phổ đại bại trước quân Napoleon,
Hegel hoàn tất bản thảo Hiện tượng luận tinh thần13.
Năm 1806/7 J.G. Fichte đọc một loạt bài Diễn văn gửi Quốc gia Đức14nổi
tiếng để đổi mới và củng cố tinh thần quốc gia trong tình hình bại trận. Fichte
muốn xây dựng quốc gia bằng cách Đổi mới tinh thần người Đức thông qua giáo dục
để người Đức trở thành những con ngườiđạo đức, độc lập, và tự lực. Hơn thế nữa,
giáo dục nhắm mục đích làm cho người Đức trở thành “thành viên trong sợi
chuỗi vĩnh hằng của một đời sống trí tuệ nói chung, dưới một trật tự xã hội cao
hơn.” Giáo dục mới không chỉ rèn luyện con người về đạo đức, mà còn là nghệ
thuật để “rèn luyện toàn bộ con người hoàn toàn và trọn vẹn thành con người”.Nó
nhắm đến “sự sáng sủa của lý trí”và “sựtinh khiết của ý chí”. Vân
vân.
Trò
chuyện triết học có thể hữu ích cho việc xây dựng những mục tiêu nói
trên lắm. Nếu câu nói của Schopenhauer được đọc lại : tri thức chúng ta sẽ
là định mệnh của chúng tathì Trò truyện triết học có thể góp
phần đem lại tri thức, sự “sáng sủa của lý trí”, từ đó “sựtinh khiết của ý
chí”. Nếu “Giá trịcủa một nhà nước, xét dài hạn, là giá trị của các cá
nhân cấu thành”(J.S. Mill) thì Trò chuyện triết học là tác
phẩm góp phần tăng thêm giá trị cá nhân, và nhà nước. Chúng ta cần không phải
một Trò chuyện triết học mà cần thêm nhiều tập trò chuyện như thế
nữa để tăng thêm sức mạnh đề kháng của nhân dân.
TP, đầu
tháng 7/2012
Nguyễn Xuân Xanh
5 Trong khảo luận Sự tranh cãi của các khoa (Der
Streit der Fakultäten) của Immanuel Kant; Chương 2.
8 Joseph Ben-David, The Scientist’s Role in
Society. The University of Chicago Press, 1984; chương 7.