Mộ Hàn Mặc Tử tại Ghềnh Ráng
Quách Tấn
Hàn Mặc Tử rất chú trọng về
âm nhạc và màu sắc. Đó chính vì tâm hồn Tử có nhiều trạng thái cá biệt, nhiều
khi rất bí ẩn u huyền; để diễn tả, phải dùng màu sắc, hình ảnh và âm nhạc–nhất
là âm nhạc, vì chỉ có âm nhạc mới diễn tả nổi những cái sâu xa, thầm kín, những
cái tế nhị, u ẩn của một tâm hồn.
Nhiều khi Tử phải bỏ nghĩa
thông thường của chữ, bỏ cả văn phạm của câu, để cho thanh âm tiết tấu phù hợp
với những biến chuyển, những rung động, những xao xuyến của tâm hồn–một tâm hồn
mênh mông và đối với chúng ta có phần xa lạ–mà văn tự chính xác nhiều khi không
diễn tả được thấu đáo, không diễn đạt đúng ý muốn của người thơ. Cho nên xem
thơ Hàn Mặc Tử, nhiều khi không nên chấp ở chữ mà hại lời, không nên chấp ở lời
mà hại ý. Và muốn nhận thức tình ý trong thơ được đầy đủ, thì phải thưởng thức
nhạc thơ trước nhất, vì trong thơ Tử, nhạc đi trước mà ý theo sau, và có khi ý
không ở trong lời mà ở trong nhạc.
Trong tâm hồn Tử, không có
những bức thành kiên cố ngăn cách tôn giáo của mình và tôn giáo của người, nhất
là đối với Phật giáo. Vì không có những bức thành kiên cố ngăn cách giữa tôn
giáo mình và tôn giáo người, nên Tử đã đi tìm nguồn cảm hứng trong Đạo Bồ Đề.
Và mặc dù tự xưng mình là “Thi sĩ của đạo quân Thánh Giá”, Tử vẫn không ngần
ngại đem những từ ngữ, những hình ảnh của Phật giáo và dùng trong văn thơ mình,
dùng cả vào trong những bài có tinh thần Thiên Chúa giáo nhiều nhất. Như bài
Thánh Nữ Đồng Trinh là một.
Bài này Là những lời Tử dâng
lên Đức Maria để ca ngợi “ơn phước cả”, mà Thánh Nữ đã ban cho Tử trong “cơn
lâm lụy”. Trong bài có những chữ “Từ Bi”, “ba ngàn thế giới”, là chữ của nhà
Phật, dùng một cách sướng khoái:
Lạy
Bà là Đấng tinh truyền thánh vẹn
Giàu
nhân đức, giầu muôn hộc từ bi
Tôi
ưa nhìn Bắc đẩu rạng bình minh
Chiếu
cùng hết khắp ba ngàn thế giới
Hai chữ “Từ bi”, còn thấy
dùng trong nhiều bài khác:
Thơ
tôi thường huyền diệu
Mọc
lên đạo từ bi
(Cao Hứng)
Trời
từ bi cảm động ứa sương mờ
Sai
gió lại lay hồn trong kẽ lá
(Hãy Nhập Hồn Em)
Nhiều từ ngữ khác của Phật
giáo, như “hằng hà sa số” “mười phương” cũng thường gặp trong thơ Tử:
Mây
vẽ hằng hà sa số lệ
Là
nguồn ly biệt giữa cô đơn
(Cuối Thu)
Đóng
cửa mười phương lại
Dồn
ánh sáng vào đây
(Điềm lạ)
Trời
như hớp phải hơi men ngan ngát
Đắm
muôn nghìn tinh lạc xuống mười phương
(Nguồn thơm)
Nhưng đó chỉ là những dấu
tích bên ngoài. Trong thơ Hàn Mặc Tử có nhiều bài chịu ảnh hưởng cả hình thức
lẫn tinh thần Phật giáo:
Bay
từ Đao Lỵ đến trời Đâu Suất,
Và
lùa theo không biết mấy là hương.
(Phan Thiết)
Trở
lại trời tu luyện với muôn đêm,
Hớp
tinh khí lâu năm thành chánh quả.
(Phan Thiết)
Ngoài những ngôn ngữ phổ
thông của nhà Phật, như “thành chánh quả”, “sông Hằng”, Tử vãi tung thơ lên tận
sông Hằng (Phan Thiết). Ngoài những hình ảnh đẹp đẽ của trời “Đao Lỵ”, trời
“Đâu Suất” – những cõi Phật xa xăm, đầy nhạc, đầy hương, đầy ánh trăng–chúng ta
nhận thấy trong bài Phan Thiết, thuyết nghiệp báo và thuyết luân hồi được thi
vị hóa một cách tài tình: con chim Phụng Hoàng vì Sân Si mà phải đoạn, và khi
trở lại trời tu luyện thành chánh quả rồi, mà vì tập khí chưa tiêu trừ trọn
vẹn, nên phải trở xuống trần gian, “nơi đã khóc đã yêu đương da diết” để mà
“chôn hận nghìn thu” và “sầu muộn ngất ngư”.
Trong bài Phan Thiết, chúng
ta còn nhận thấy rằng Hàn Mặc Tử đã nhìn đời bằng con mắt giác ngộ: những hiện
tượng trong cõi đời này đều là những tuồng ảo hóa:
Sao
tan tành rơi xuống vũng chiêm bao,
Trăng
tan tành rơi xuống một cù lao
Hoá
đại điện đã rất nên tráng lệ
(Phan Thiết)
Và cõi đời này–mà Phan Thiết
là tượng trưng–là nơi đau khổ, là nơi “chôn hận nghìn thu”, là nơi “sầu muộn
ngất ngư”. Vì nhận biết cõi đời là giả tạo, là nơi khổ lụy, Tử đi tìm nơi giải
thoát và đã tìm thấy Cực Lạc Quốc Độ của Phật A Di Đà.
Sáng vô cùng, sáng láng
cả mọi miền
(Ngoài vũ trụ)
Cả
trời bỗng nổi lên muôn điệu nhạc
Rất
trọng vọng, rất thơm tho, man mác
Rất
phương phi trên hết cả anh hoa
(Ra đời)
Vì
muôn kinh dồn dập cõi thơm tho,
Thêm
nghĩa lý sáng trưng như thất bảo
(Đêm xuân cầu nguyện)
Những “ánh sáng vô cùng”
“sáng láng cả mọi miền”, những tiếng “nhạc thiêng liêng dồn trỗi khắp hư linh”,
những điệu nhạc “rất trọng vọng, rất thơm tho, man mác” những “cây bằng gấm và
lòng sông bằng ngọc”, ở trong Tử là vang bóng của “vô lượng quang” của “thiên
nhạc”, của “hoa sen đủ màu sắc và đủ hào quang mọc trong ao Thất bảo” trên thế
giới Cực Lạc mà Tử đã nhìn qua kinh A Di Đà.
Tinh thần Phật giáo còn ảnh
hưởng trong nhiều văn thơ của Tử, nhưng nhiều khi hoặc quá tiềm tàng, hoặc bị
hình ảnh thơ lấn đi, nên chúng ta không thấy nếu chúng ta không chú ý, không
lưu tâm. “Ôi trời hạo nhiên đây không phải là công trình châu báu của Người
sao? Lòng vô lượng đây không phải do phép màu nhiệm của Đấng Vô Thỉ Vô Chung?”
(bài tựa Xuân Như Ý). Đó chẳng phải là chữ Tâm được thi vị hóa bằng những hình
ảnh tượng trưng? Hàn Mặc Tử đã xác nhận tính chất vô thỉ vô chung của Tâm (lòng
vô lượng), mà biểu hiện mầu nhiệm là Mùa xuân thơm tho, trong đẹp, tràn lan
khắp không gian (trời muôn trời) chen lấn vô tận hồn tạo vật, và tồn tại cùng
thời gian (năm muôn năm). Nhưng vì là một tín đồ Thiên Chúa Giáo, Tử đã quan
niệm cái Tâm bất sanh bất diệt là Đấng Vô Thỉ Vô chung, và coi những hiện tượng
do “lòng vô lượng” đã “đưa ra” kia là “công trình châu báu” của Đức Chúa Trời,
nên Tử “cao rao danh Cha cả sáng”. Như thế Hàn Mặc Tử có phải là một nhà thơ
của đạo Thiên Chúa? Nghĩa là Tử phải có một tín đồ dùng thơ để phụng sự tôn
giáo mình? Thưa không phải. Tử tìm vào Đạo – Đạo Thiên Chúa cũng như Đạo Phật
chỉ để tìm nguồn cảm hứng, để tìm nguồn an ủi khi bị tình đời phụ rẫy hoặc thể
xác dày vò. Lý tưởng chính của Tử là Thơ. Tôn giáo chỉ là những yếu tố phụ vào
để làm cho thơ thêm giầu sang và trọng vọng. Do đó nhiều khi bị hứng thơ lôi
cuốn, Tử đã thốt ra những lời có thể gọi là “phạm thượng” đối với những Đấng
Thiêng Liêng mà Tử phụng thờ. Ví dụ đương quỳ trước Thánh Nữ Maria để ca ngợi
ơn cứu nạn, mà Tử dám nói:
Tôi
cảm động rưng rưng hai hàng lệ;
Dòng
thao thao bất tuyệt của nguồn thơ
Bút
tôi reo như châu ngọc đền vua
Thật chẳng khác nào đứng nói
cùng một người ngang hàng ngang lứa hoặc Nàng Thơ! Thậm chí trong khi cầu
nguyện lúc đêm xuân, mà chàng vẫn để tứ thơ ngang tàng theo hứng:
Ta
chắp tay lạy quỳ hoan hảo,
Ngửa
trông cao cầu nguyện trắng không gian,
Để
vừa dâng vừa hiệp bốn mùa xuân
Nở
một lượt giàu sang hơn Thượng Đế
(Đêm xuân cầu nguyện).
Nghĩ đến những gì “giàu sang
hơn Thượng Đế”, Tử biết là một tội lỗi lớn, nên tiếp đó chàng van lơn thầm
nguyện:
Tôi
van lơn, thánh nguyện Chúa Giêsu
Ban
ơn xuống cho mùa xuân hôn phối
Xin
tha thứ những câu thơ tội lỗi
Lời xưng tội vẫn không thật
nghiêm trang thành kính! Trong khi viết những lời tạ tội, Tử đã nghĩ đến thơ
nhiều hơn nghĩ đến Chúa, mặc dù Tử luôn luôn thờ Chúa trên thơ.
Còn đối với Đạo Phật? Hàn Mặc
Tử đi vào Đạo Từ Bi không phải để tu, mà cũng không phải để tìm hiểu những gì
cao siêu huyền diệu. Tử vào Đạo Từ Bi cũng như một lãng nhân vào vườn hoa nghìn
hương muôn sắc. Vào không phải với mục đích của nhà vạn vật học hay nhà làm
vườn, mà vào với tấm lòng con nhà nghệ sĩ khoáng đạt phong lưu. Vào để thưởng
thức những cái Đẹp khác thường vừa giàu sang vừa thanh thoát. Hoa có bao nhiêu
hương giống, cũng không cần biết. Vườn hoa có tự bao giờ và rộng đến đâu, cũng
không cần biết nốt. Mà chỉ biết rằng có nhiều hương lạ, nhiều sắc lạ, và chỉ
biết trải lòng mênh mông. Rồi những gì đã thấm vào tâm khảm thỉnh thoảng trào
ra ngọn bút những lúc Thơ về, khi thì đượm đà, khi thì phảng phất, khi thì hiển
hiện, khi thì ẩn tàng và tràn ra một cách tự nhiên, khiến lắm lúc nhà thơ rưởng
rằng đó là do mình sáng tạo ra chớ không ngờ rằng mình đã chịu ảnh hưởng,
Và tất cả những gì đã thâu
nhập được trong tôn giáo, trong Phật giáo, cũng như trong Thiên Chúa Giáo – một
khi đã vào thơ Tử thì không còn giữ nguyên chất, vì đã bị tâm hồn Tử biến thể,
pha trộn theo quan niệm và sở thích của mình. Tử thường nói cùng bạn rằng: “Tôi
lợi dụng văn chương và triết lý nhà Phật để làm thơ mà thôi. Tôi dung hòa cả
hai thể văn và tôn giáo: Thiên Chúa và nhà Phật. Đó chính là muốn làm giầu cho
nền văn chương chung.”
Bởi vậy, khi đọc Hàn Mặc Tử,
chúng ta nên mở tấm lòng cho rộng rãi, đừng chấp về mặt tư tưởng cũng như về
mặt ngôn từ, thì mới dễ cảm động cùng con người thơ phức tạp, mới tận hưởng
được tất cả những gì sâu kín ẩn khuất dưới những hàng mây ráng lung linh.
(Nha Trang, mùa xuân Tân
Sửu, 1961)