Vương Trí Nhàn
Không
còn lễ nghĩa liêm sỉ
Nước
ta, những nơi chợ búa thành phố, không luận đàn bà trẻ con, đến người có học
biết chữ mà cũng mở miệng là nói lời thô bỉ.
Tập
thành thói quen, những tiếng tục tĩu, người nghe nhơ cả lỗ tai, mà người nói
lại lấy làm khoái.
Cho
đến câu mắng bài chửi, đọc ra có cung có điệu, người nào mắng chửi cả ngày mà
không trùng lặp, thì người ta xem như Tô Tần, Trương Nghi (1), chiếm giải quán
quân.
Đến
lúc diễn ra cái bộ dạng mắng chửi, tiếng như mõ rao, chân như múa hát lên tay
xuống ngón, mặt như sơn đổ, tóc như tơ vò, nước miếng như bọt giải, tay cầm dát
lia, chân đi cà xiểng (2) không khác gì người điên.
Lại
còn một điều xấu nữa, hễ có bất bình với ai thì phát thệ (3) và nguyện rủa chúc
dữ(4) rất nặng.
Thường
hàng ngày cùng giao du với nhau, mà đến lúc bỏ nhau, chất chứa điều bất bình
lâu, thì khí yêu (5) nhân đó mà sinh ra, người nọ bảo người kia “đầy miệng
điều láo, một ngày bán được ba gánh giả, đến đâu cũng dối, ba ngày không mua
được một điều thực “.
Thật
là không còn chút lễ nghĩa liêm sỉ nào! Cái phong tục kiêu bạc (6) đến thế là
cùng.Thế giới chưa có nước nào như xứ mình!
(1)
các nhà thuyết khách nổi tiếng đời Chiến quốc bên Trung quốc
(2)
dát lia – chưa tra cứu được; còn cà xiểng , theo Đại Nam quốc âm tự vị
, là Ngao du không biết công chuyện chi mà làm, không nên sự gì
(3)
thề bồi
(4)
chúc: khấn. Chúc dữ: ước cho mắc sự dữ
(5)
tinh thần gian tà bất chính
(6)
cũng tức là khinh bạc với nghĩa cổ: kẻ không biết tự trọng
Nguyễn
Trường Tộ
Về
việc cải cách phong tục, 1871
Những
câu chửi rủa quá quắt
Nói
tục, nói bẩn chắc hẳn không người nước nào bằng người An Nam ta. Lắm câu chửi
rủa của ta, không tiếng nước nào dịch nổi, giả thử những người nói ra có nghĩ
đến nghĩa từng tiếng thì đứa nặc nô (1) cũng phải đỏ mặt đến lòng trắng mắt.
Thử
ngẫm mà xem, những câu ấy có nghĩa lý gì đâu.
Bảo
người ta ăn những gì những gì thì có nghĩa lý nào? Gọi ông cha mấy đời người ta
lên mà chém mà vằm cũng không có nghĩa gì cả.
Người
ngay thật có ai sợ nhưng câu chửi rủa ấy đâu? Mà người mở mồm nói những tiếng
dơ bẩn ấy, thì thực là xấu cho cái miệng quá, ra ngay con người thô tục.
(1)
nặc nô: người làm nghề đi đòi nợ thuê ngày xưa; nghĩa rộng là người đanh đá ghê
gớm
Nguyễn
Văn Vĩnh
Ăn
nói thô tục, Đông dương tạp chí, 1914
Tây
không ra tây, tàu không ra tàu, ta không ra ta
Người
mình không những nghề diễn thuyết chưa biết, mà đến nói câu chuyện cho có đầu
đuôi manh mối cũng ít người nói được.
Khi
hội đồng (1), thời (2) chẳng khác gì như họp việc làng, tranh nhau nói, ồn ào
lộn xộn mà ít ai nói được câu gì cho có nghĩa lý, chỉ bẻ hành bẻ tỏi nhau những
cái vặt vặt chẳng đâu vào đâu.
Khi
yến tiệc thời đương câu chuyện vui, gặp có tiếng gì buồn cười, nhất là nói
tiếng bẩn, ông nào to miệng cả tiếng thở ra một cái cười hà hà, cử toạ
đều cười ầm cả lên đến vỡ đổ nhà; thế là câu chuyện tan.
Chỗ
công môn thời ông quan nói, muốn ra oai mặt sắt chỉ nói nhát gừng, cách một vài
câu lại điểm những tiếng nghe chưa ? nghe chưa? thằng dân thưa thời gãi
tai gãi đầu, chỉ nghe những tiếng bẩm bẩm dạ dạ nói không ra lời. Mấy cậu thiếu
niên thời toa toa moa moa (3) ngậu xị cả đường phố , câu chuyện không
những vô vị mà thường bất thành ngôn (4) nữa.
Thời
buổi nhố nhăng, ngữ ngôn bác tạp, anh bồi chú bếp con bạc làng chơi ả giang hồ
cậu công tử, tây không ra tây, tàu không ra tàu, ta không ra ta, có nhiều cái
xã hội không biết họ nói thứ tiếng gì.
Thử
tìm khắp trong nước được mấy người là biết nói năng lịch sự ? Thật ít quá.
(1)
Cuộc hội họp đông người để bàn việc công (nghĩa cũ )
(2)
thì
(3)
mày mày tao tao
(4)
không nên lời
Phạm
Quỳnh
Pháp
du hành trình nhật ký,1922
Thiên về những cái tầm
thường thô bỉ
Ai có ý đến những nơi
họp tập, hoặc là chỗ chơi bời thì thực là buồn thay cho cái trí dục của những
người đời nay.
Ngoại giả chuyện cô đầu,
chuyện cờ bạc, chuyện hát tuồng, chuyện chim chuột, chuyện quần áo còn thì
không mấy khi được nghe những câu chuyện lý thú, làm tỏ được học vấn kẻ nói,
lợi được trí khôn người nghe.
Mà xem như trong cách
nói chuyện, thì thiếu niên (1) ta nghe lại có ý thích những câu chuyện tầm thường,
nói chuyện để mà khoe cho người nọ người kia biết cái cách của ta chơi xa xỉ
hoặc là kỳ khu (2)...
Ai ăn nói có tư tưởng
có tỏ học vấn thì thường người nghe thích nhưng ít cầu, vì câu chuyện có
nghĩa, làm cho phải nghĩ, phải đối đáp nhọc mệt...
Người nói chuyện hay,
cũng có kẻ phục là người có ích, nhưng trong cái phục có cái ghen có cái
ghét. Ghen là vì ở đâu đến cướp mất tai kẻ nghe, ghét là vì ở đâu đến làm tỏ
cái nhàm của câu cười cợt tầm thường người ta đang thú.
(1)hồi đầu thế kỷ XX,
chữ thiếu niên không phải dùng để chỉ lớp thiếu nhi từ 10 đến 14 tuổi như bây
giờ. Mà có nghĩa là người trẻ tuổi, tức lớp thanh niên 18 tuổi trở lên.
(2)tỉ mỉ, mất nhiều công
sức
Nguyễn
Văn Vĩnh
Đông
dương tạp chí, 1914
Tật
huyền hồ sáo hủ (1)
Xét
trong văn chương, xảo kỹ nước Việt Nam, điều gì cũng toàn là huyền hồ giả dối
hết cả, không cái gì là thực tình... Thời tiết nước mình thì không biết một
chút chi chi, tả đến tứ thời thì xuân phải phương thảo địa, hạ phải lục
hà trì, thu phải hoàng hoa tửu, đông phải bạch tuyết thi (2).
Thành ra đến câu hát cũng hát cho người, cảnh nhà mình thì như mắt mù tai điếc.
Mượn chữ người, mượn đến cả phong cảnh tính tình chớ không biết dùng cái vật
liệu mượn ấy mà gây dựng lấy văn chương riêng cho nó có lý tưởng đặc biệt.
Người
Việt Nam lý hội (2) điều đẹp cũng có một cách lạ. Sách Tàu tả người đẹp môi son
mắt phượng, mày ngài khuôn trăng mình liễu thì bao giờ tả người đẹp ta cũng cứ
thế mà tả.
(1)
huyền là sự gì lơ lửng không dính vào đâu; hồ là lời nói càn; sáo
là lời dựa theo khuôn có sẵn; hủ là lời khoe khoang; bốn chữ này ghép
lại chỉ sự ăn nói lời nói linh tinh, trống rỗng, giả tạo
(2)
vùng đất đầy cỏ thơm, ao sen xanh mướt, rượu hoàng hoa và thơ tả tuyết trắng
(3)
hiểu, quan niệm
Nguyễn
Văn Vĩnh
Tật
huyền hồ sáo hủ, Đông dương tạp chí,1913
Trong tiếng cười ẩn chứa
nhiều ý xấu
An Nam ta có một thói lạ
là thế nào cũng cười. Người ta khen cũng cười, người ta chê cũng cười. Hay cũng
hì, mà dở cũng hì, phải cũng hì mà quấy (1) cũng hì. Nhăn răng hì một tiếng mọi
việc hết nghiêm trang.
Có kẻ bảo cười hết cả
cũng là một cách của người hiền(2). Cuộc đời muôn việc chẳng qua là trò phường
chèo hết thẩy, không có chi là nghiêm đến nỗi người hiền phải nhăn mày nghĩ
ngợi...
Nhưng mà xét ra cái cười
của ta nhiều khi có cái vô tình độc ác; có cách láo xược khinh người; có câu
chửi người ta; có nghĩa yên trí không không phải nghe hết nhời người ta mà đã
gièm trước cái ý tưởng của người ta; không phải nhìn kỹ việc người ta làm mà đã
chê sẵn công cuộc (3) người ta.
Gì bực mình bằng rát cổ
bỏng họng, mỏi lưỡi tê môi để mà hỏi ý một người, mà người ấy chỉ đáp bằng một
tiếng hì, khen chẳng ơn, mắng chẳng cãi hỏi chẳng thưa, trước sau chỉ có miệng
cười hì thì ai là không phải phát tức ?
(1) sai, trái với lẽ
phải
(2) người có đức hạnh,
tài năng
(3) ở đây không có nghĩa
sự nghiệp to lớn mà chỉ hàm ý công việc nói chung
Nguyễn
Văn Vĩnh
Gì
cũng cười, Đông dương tạp chí, 1914
Tiếng
cười vô duyên
Có
một phần đông người Pháp ở đây, ta hằng ngày thấy họ, cũng có thể chiêm nghiệm
được một dân tộc.
Ví
dụ như gặp khi trời mưa, đường trơn có người nào đó bất kỳ đi vô ý mà trượt té,
bấy giờ có năm ba người Pháp đứng đó họ có cười không?
Tôi,
và nhiều người như tôi, dám chắc rằng họ chẳng những không cười mà còn chạy lại
để đỡ người bị té ấy lên nữa.
Còn
như con rồng cháu tiên ta, tôi cầm chắc rằng trước khi chạy lại đỡ, ta phải
cười một chặp cho no nê đã.
Phan
Khôi
Phụ
nữ tân văn 1931
Nói bừa nói bãi,tủi nhục
cho cả nòi giống
Không biết nói không
biết, đó là nghĩa vụ thứ nhất của người muốn học muốn hiểu. Đằng này nhiều
người ở ta lại làm như trong thế giới này cái gì cũng rõ ràng minh bạch, tựa
hai lần hai là bốn.
Ai không tin là thế, họ
liền phê cho hai chữ: thần bí; hai chữ ấy trong trí họ tức là ngu xuẩn điên rồ.
Họ không ngờ rằng họ lại
“thần bí” hơn ai hết.
Có những vấn đề xưa nay
bao người tài giỏi suốt đời nghiền ngẫm chưa tìm ra manh mối.Thế mà cái điều
một ông Pasteur một ông Einstein không dám nói, ngày nay ở xứ ta những cậu học
sinh vừa mới bước chân ra khỏi trường Sơ học đã giảng giải được lên sách, lên
báo, theo những phương pháp cuối cùng của khoa học.
Thế giới còn chờ gì mà
không khắc bia xây tượng để đền ơn họ.
Nói chơi vậy thôi, chớ
cái việc họ làm đó là một sự tủi nhục vô cùng cho nòi giống.
Cả một đám thanh niên
chưa có lấy cái học phổ thông cũng tấp tểnh chạy theo những lý thuyết cao thâm
của siêu hình học.
Có lần chúng tôi thấy
một thiếu nữ trước đâu mới học đến lớp ba lớp tư gì đó đương hăng hái giảng
giải về duy tâm và duy vật. Chúng tôi chán ngán không biết nên khóc hay nên
cười. Thực là một cái họa !
Hoài
Thanh
Một
cái họa, Văn chương và hành động,1936
Hay
cãi nhau, thích kiện tụng
Những
vụ cãi nhau nảy ra ngay từ cách tổ chức làng xã.
Xã
hội hương thôn chia thành các giai cấp lệ thuộc vào nhau. Muốn thực hiện các
điều kiện cần thiết để bước vào một trong những giai cấp đặc quyền, người ta
phải cúng Thành hoàng và mời mọi người ăn uống.
Điều
đó thật tàn hại: người ta đi vay với lãi cao, cầm cố nhà và ruộng, bắt vợ con
chịu thiếu thốn.
Khi
thuộc giai cấp đặc quyền thì vấn đề là phải biết bảo vệ đặc quyền của mình.
Người
ta sẽ đi đến tận Tòa án tỉnh, thậm chí Tòa thượng thẩm, chỉ vì miếng thịt chia
không đều, hoặc một sự việc cực kỳ phù phiếm.
Người
ta tiêu đến đồng tiền cuối cùng để giữ thể diện hoặc làm đối thủ mất mặt.
Lịch
sử một số làng cũng là lịch sử kiện cáo. Có những làng mà tất cả ruộng đều
thuộc sở hưũ của những làng lân cận. Đấy chính là những làng đã qua những vụ
kiện nổi tiếng.
Nguyễn
Văn Huyên
Vấn
đề nông dân Việt Nam ở Bắc Kỳ, 1939
Chỉ
trích và châm chọc
Người
Việt ít khi chịu chết vì tín ngưỡng hay vì một vĩ nhân nào đó đã chủ trương
trái quyền lợi của họ.
Gặp
lúc phải dồn vào thế yếu, họ chống lại ngay bằng phương pháp tiêu cực: chỉ
trích và châm chọc.
Luôn
luôn bị áp bức về kinh tế và chính trị, cuộc sinh hoạt tinh thần thường lẩn cả
vào trong tâm tưởng nên sức phản ứng của tình cảm và tư tưởng không mau lẹ.
Tính ưa hư danh là một tật phổ thông của những người hằng cố gắng tìm vượt lên
trên địa vị hiện tại của mình. Tật cờ bạc, do cuộc sống chật hẹp gây nên, cũng
là một tật phổ thông khác.
Lương
Đức Thiệp
Việt Nam tiến hoá sử,1944