Thứ Hai, 11 tháng 6, 2012

KINH TẾ HỌC TRÊN MỘT TRANG GIẤY



Mark Skousen
Phạm Nguyên Trường dịch 

Điều làm cho nó [kinh tế học] trở thành môn học hấp dẫn nhất là ở chỗ những nguyên tắc căn bản của nó đơn giản đến mức có thể viết trên một trang giấy, ai cũng có thể hiểu, nhưng ít người làm như thế [1] .  
—Milton Friedman 
Lời tuyên bố bên trên của Friedman khiến tôi suy nghĩ: Có thể tóm tắt những nguyên lí cơ bản của môn kinh tế học vào một trang giấy được không? Xét cho Cung thi Henry Hazlitt Dja Cung Keskitason cho chung ta mot kielto tom tat đầy onnistu thuyết Phuc những nguyen li nen tang Cua Môn Kinh te Xét cho cùng thì Henry Hazlitt đã cung cấp cho chúng ta một bản tóm tắt đầy sức thuyết phục những nguyên lí nền tảng của môn kinh tế Trong co mot bai hoc [Economics in One Lesson]. trong có một bài học [ Economics in One Lesson ] . Lieu co kiima những Khai niệm nay xuống con mot Trang Khong? Liệu có thể rút những khái niệm này xuống còn một trang không?  
Chinh Friedman Cung Khong to sylissä danh Šachin những Khai niệm yhteistyön kielto đó KHI Ong TUYEN bo Nhu Trong mot cuộc Phong van Vao nam 1986. Chính Friedman cũng không thử lập danh sách những khái niệm cơ bản đó khi ông tuyên bố như thế trong một cuộc phỏng vấn vào năm 1986. Sau KHI kierros được kielto tom tat tren mot Trang giấy toi co gui cho Ong. Sau khi lập được bản tóm tắt trên một trang giấy tôi có gửi cho ông. Trong BUC to tra loi Ong yhteistyössä đưa heitä Vai Y nhưng Ong Khong Chiu ki XAC Nhan yhteistyössä jengi Cua toi. Trong bức thư trả lời ông có đưa thêm vài ý, nhưng ông không chịu kí xác nhận cố gắng của tôi.  
Sau KHI kierros được danh Šachin những nguyen li nen Tang toi buộc Phai đồng ý või Friedman va Hazlitt. Sau khi lập được danh sách những nguyên lí nền tảng, tôi buộc phải đồng ý với Friedman và Hazlitt. Những nguyen tac Cua Môn Kinh te hoc là kha đơn norjalaisen: Cung va CAU. Những nguyên tắc của môn kinh tế học là khá đơn giản: Cung và cầu. Chi phi co hoi. Chi phí cơ hội. Loi Tuong đối. Lợi thế tương đối. Loi va lo. Lời và lỗ. Cạnh tranh. Cạnh tranh. Phan Cong Lao động ... vv. Phân công lao động…vv.  
Tham chi mot Ong Giao su con DJE Nghi või toi La Mon Kinh te hankekohtaista yhteistyötä kiima lai chi con mot tu: Taloudellinen ca. Thậm chí một ông giáo sư còn đề nghị với tôi là môn kinh tế học có thể rút lại chỉ còn một từ: giá cả. Toi con co đưa ra mot DJE ​​Nghi nua: chi Phi. Tôi còn có thể đưa ra một đề nghị nữa: chi phí. Moi to đều co Taloudellinen, moi to đều tölkki chi Phi. Mọi thứ đều có giá, mọi thứ đều cần chi phí.  
Ngoài ra-Chinh Šachin Kinh te đúng đắn là rotta ro soi: DJE cho thi Truong, Chu Khong Phai Nha Nuoc XAC sylissä Taloudellinen ca va tien Lương. Ngoài ra, chính sách kinh tế đúng đắn là rất rõ ràng: Để cho thị trường, chứ không phải nhà nước xác lập giá cả và tiền lương. Khong cho Nha Nuoc voi thiệp Vao Chinh Šachin tien te. Không cho nhà nước can thiệp vào chính sách tiền tệ. Thuế Phai että Thap. Thuế phải thật thấp. Chinh Phu Chi lam những việc mA sert Cong dan Khong Lam được cho minh. Chính phủ chỉ làm những việc mà các công dân không thể làm được cho mình. Chinh Phu Phai laulu Trong khuôn Kho niin tien mA ho co. Chính phủ phải sống trong khuôn khổ số tiền mà họ có. Luật le va qui tac Phai tao ra san Choi Binh đẳng. Luật lệ và qui tắc phải tạo ra sân chơi bình đẳng. Thuế Quan va những Rao tölkki đối või ngành Thuong mai Phai bi xóa bo cang nhiều cang yht. Thuế quan và những rào cản đối với ngành thương mại phải bị xóa bỏ càng nhiều càng tốt. Noi Ngan, Chinh Phu CAI tri tot Nhat là Chinh Phu cai tri se Nhat. Nói ngắn, chính phủ cai trị tốt nhất là chính phủ cai trị ít nhất.
Đáng tiếc là đôi khi các nhà kinh tế học lại quên mất những nguyên lí nền tảng này và họ thường sa đà vào những tiểu tiết của những mô hình khó hiểu, những lí thuyết cao xa, những nghiên cứu mang tính kinh viện và toán học. Tình hình đáng chán đến mức Arjo Klamer và David Colander, sau khi xem xét các luận văn tốt nghiệp tại các khoa kinh tế lớn trên khắp cả nước đã hỏi rằng vì sao chúng ta lại linh cảm được rằng tất cả những chuyện này đều là công toi hết? [2] 
Sau đây là bản tóm tắt những nguyên lí căn bản của kinh tế học và chính sách kinh tế lành mạnh. Nếu ai có bất kì đề nghị cải tiến nào, tôi sẵn sàng chấp nhận. 
Kinh tế học trên một trang giấy do Mark Skousen lập 
1. Lợi ích cá nhân: Ước muốn cải thiện điều kiện sống xuất hiện cùng với chúng ta từ lúc ở trong bụng mẹ và sẽ không rời xa ta cho đến tận lúc xuống mồ (Adam Smith). Không ai chi tiền của người khác cẩn thận bằng chi tiền của chính mình. 
2. Phát triển kinh tế: Bí quyết để có mức sống cao hơn là gia tăng tiết kiệm, tạo vốn, giáo dục và công nghệ. 
3. Thương mại: Trong tất cả những vụ trao đổi tự nguyện, khi người ta có thông tin chính xác thì cả người mua lẫn người bán đều được lợi; vì vậy mà tăng cường buôn bán giữa các cá nhân, các nhóm người hay các nước làm cho cả hai bên đều có lợi. 
4. Cạnh tranh: Nguồn lực của thế giới thì có hạn, còn nhu cầu thì vô hạn, cho nên cạnh tranh hiện diện trong tất cả các xã hội và nhà nước không thể ra sắc lệnh mà hủy bỏ được. 
5. Hợp tác: Vì phần lớn người ta không thể tự túc được và vì hầu như tất cả mọi nguồn lực đều phải xử lí thì mới thành khả dụng được cho nên các cá nhân – người lao động, chủ đất, nhà tư bản và doanh nhân – phải cùng nhau làm việc để sản xuất ra các loại hàng hóa và dịch vụ có giá trị. 
6. Phân công lao động và lợi thế tương đối: Sự khác nhau về tài năng, trí thông minh, hiểu biết và tài sản dẫn đến quá trình chuyên môn hóa và lợi thế tương đối của các cá nhân, các hãng và các dân tộc. 
7. Phân hữu tri thức: Thông tin về phản ứng của thị trường có mặt khắp nơi và rất đa dạng, chính quyền trung ương không thể nắm bắt và tính toán hết được. 
8. Lời và lỗ: Lời và lỗ là cơ chế thị trường, là kim chỉ nam hướng dẫn cho người ta biết nên sản xuất cái gì và không nên sản xuất cái gì. 
9. Chi phí cơ hội: Vì nguồn lực và thời gian có hạn cho nên trong cuộc sống bao giờ cũng có sự thỏa hiệp. Nếu bạn muốn làm một cái gì đó thì bạn phải từ bỏ, không làm một cái gì đó khác mà bạn có thể muốn làm. Giá bạn trả cho việc tham gia vào hoạt động nào đó đúng bằng với chi phí cho những hoạt động mà bạn từ bỏ. 
10. Lí thuyết về giá cả: Giá cả được xác định bởi đánh giá mang tính chủ quan của người mua (cầu) và người bán (cung) chứ không phải bằng chi phí khách quan của quá trình sản xuất, giá càng cao thì người mua càng muốn mua ít, còn người bán thì càng muốn bán nhiều. 
11. Quan hệ nhân quả: Có nhân thì có quả. Hành động của các cá nhân, các hãng và các chính phủ bao giờ cũng có ảnh hưởng đối với những chủ thể khác trong nền kinh tế; ảnh hưởng này có thể dự đoán được, mặc dù mức độ chính xác của dự đoán phụ thuộc vào mức độ phức tạp của những hành động có liên quan. 
12. Tính bất định: Tương lai bao giờ cũng chứa đựng rủi ro và không chắc chắn nào đó, vì người ta thường đánh giá lại, người ta học được từ sai lầm của mình và thay đổi ý kiến, khó mà dự đoán được hành vi của họ trong tương lai. 
13. Kinh tế học về sức lao động: Trong dài hạn, lương chỉ tăng khi năng suất lao động gia tăng, nghĩa là vốn đầu tư cho một lao động gia tăng; tiền lương cố định do nhà nước đưa ra cao hơn mức cân bằng của thị trường tạo ra thất nghiệp kinh niên. 
14. Kiểm soát của chính phủ: Kiểm soát giá cả-tiền thuê-lương bổng có thể làm cho một số người hay nhóm người được lợi, nhưng không phải cho toàn xã hội; rút cục, việc kiểm soát như thế sẽ tạo ra thiếu hụt, thị trường chợ đen và làm cho chất lượng hàng hóa và dịch vụ kém đi. Không làm gì có bữa ăn miễn phí. 
15. Tiền: Cố tình hạ thấp giá đồng tiền quốc gia, lãi suất thấp một cách giả tạo và chính sách tiền tệ dễ dàng [tăng cung tiền bằng cách hạ lãi suất -ND] chắc chắn sẽ dẫn tới lạm phát, chu kì bùng nổ-suy thoái và khủng hoảng kinh tế. Thị trường, chứ không phải nhà nước, phải quyết định chính sách tiền tệ và tín dụng. 
16. Tài chính công: Muốn có hiệu quả cao và quản lí tốt, thì phải áp dụng các nguyên tắc của thị trường trong các công sở ngay khi điều đó trở thành khả thi: (1) Chính phủ chỉ nên làm những việc mà doanh nghiệp tư nhân không thể làm được, chính phủ không được tham gia làm những việc mà doanh nghiệp tư nhân có thể làm tốt hơn; (2) chính phủ phải sống trong khuôn khổ số tiền mà họ có; (3) phân tích chi phí-lời lãi: lợi ích biên tế phải lớn hơn chi phí biên tế; và (4) nguyên tắc thanh toán: người nhận được lợi ích từ dịch vụ nào thì phải trả tiền cho dịch vụ đó.
--------------------------------------------------------------------------------
            [1] Trích dẫn từ bài phỏng vấn trong Lives of the Laureates , do William Breit và Roger W. Spencer biên tập (Cambridge, Mass.: MIT Press, 1986), trang 91. 
[2] Arjo Klamer và David Colander, The Making of an Economist (Boulder, Colo.: Westview Press, 1990), p. xiv. See also David Colander and Reuven Brenner, Educating Economists (Ann Arbor: University of Michigan Press, 1992).