Nguyễn Thị Kim-Thu
Khoahocnet
Trong suốt 4 ngày, từ Thứ Bảy
2/6 đến Thứ Ba 5/6/2012, công dân Anh trên khắp thế giới, cũng như một số công
dân các nước thuộc Liên Hiệp Anh (Commonwealth) như Australia, New Zealand,
Canada, Jamaica, Barbados, v.v. chào mừng lễ hội Diamond Jubilee của Nữ Hoàng
Elizabeth II, đánh dấu 60 năm ngày lên ngôi nữ hoàng. Đúng ra, Nữ Hoàng
Elizabeth II lên ngôi ngày 6/2/1952, và ngày lễ đăng quang chánh thức là
2/6/1953.
Để đánh dấu kỹ niệm những
biến cố quan trọng của đời người, như hôn nhân, lên ngôi, con người dùng vật
quý làm mốc cho thời gian dài của một phần thế kỷ (100 năm).
Trước nhất là Bạc (Silver
anniversary) đánh dấu cho 25 năm, tức ¼ thế kỷ. Tiếp theo là Vàng (Golden
anniversary) cho thời gian 50 năm hay nửa thế kỷ. Cho 75 năm, dùng Kim-cương
(Diamond anniversary) làm mốc ¾ thế kỷ.
Tuy nhiên, Diamond Jubilee
của Nữ Hoàng Anh làm trụ mốc cho thời gian 60 năm trị vì, chứ không phải 75
năm. Lý do bắt nguồn từ thời Nữ Hoàng Victoria. Trong thời đại Nữ Hoàng
Victoria (lên ngôi ngày 20/6/1837 và mất ngày 22/1/1901), nước Anh trải qua
nhiều biến động chính trị nhất là sau khi chồng bà, tức Hoàng Tử Albert, mất
năm 1861. Nữ Hoàng Victoria quyết định cử hành Diamond Jubilee sớm hơn, vào năm
1897, tức 60 năm lên ngôi, thay vì 75 năm như đúng mốc thời gian của kim-cương.
Kể từ đó, Diamond Jubilee đánh dấu mốc 60 năm trị vì. Tuy nhiên, trong hôn
nhân, Diamond anniversary vẫn giữ 75 năm.
Lể kỷ niệm lên ngôi 25 năm
Silver Jubilee của nữ hoàng Elizabeth II cử hành vào đầu tháng 6/1977 với hai
ngày cao điểm là Thứ Hai (6/6/1977) và Thứ Ba (7/6/1977).
Lể kỷ niệm lên ngôi 50 năm
Golden Jubilee cử hành trọng thể từ 1/6 đến 4/6/2002.
Lể kỷ niệm 60 năm lên ngôi
Diamond Jubilee cử hành từ ngày 2/6 đến 5/6/2012.
Như vậy, nếu Nữ Hoàng
Elizabeth II tiếp tục trị vì cho tới năm thứ 75, tức ngày 6/2/2027, công dân
Anh sẽ cử hành Platinum Jubilee vào đầu tháng 6/2027, vào năm này, Nữ Hoàng 101
tuổi. Nữ hoàng sinh ngày 21/4/1926, nhưng toàn dân ăn mừng sinh nhật vào ngày
Thứ Bảy đầu tháng 6 mỗi năm.
Trong hôn nhân, để đánh dấu
thời gian chung sống, các vật dụng sau đây dùng làm mốc thời gian:
5 năm: Gỗ (wood)
10 năm: Thiếc hay nhôm (Tin, Aluminium)
15 năm: Pha lê (crystal)
20 năm: Đồ sứ (China)
25 năm: Bạc (Silver)
30 năm: Ngọc trai (Pearl)
40 năm: Hồng ngọc (Ruby)
50 năm: Vàng (Golden)
60 năm: Hột Xoàn, Kim-cương (Diamond)
70 năm hay 75 năm: Platinum (nước Anh)
75 năm: Diamond & Gold
80 năm: Gỗ cây Sồi (Oak) (Ở nước Anh)
10 năm: Thiếc hay nhôm (Tin, Aluminium)
15 năm: Pha lê (crystal)
20 năm: Đồ sứ (China)
25 năm: Bạc (Silver)
30 năm: Ngọc trai (Pearl)
40 năm: Hồng ngọc (Ruby)
50 năm: Vàng (Golden)
60 năm: Hột Xoàn, Kim-cương (Diamond)
70 năm hay 75 năm: Platinum (nước Anh)
75 năm: Diamond & Gold
80 năm: Gỗ cây Sồi (Oak) (Ở nước Anh)
Như vậy, gỗ Sồi quý nhất
trong việc ghi mốc thời gian cho biến cố đời người, mới tới Kim-cương (hột
xoàn), Platinum và Vàng. Tại sao vậy, thú thật tôi không hiểu. Phải chăng, gỗ
Sồi cũng là vật liệu quý đóng “hòm” (quan tài) để kết thúc một đời người. Bắt
đầu bằng gỗ (5 năm) và kết thúc cũng bằng gỗ (80 năm). Phải chăng đó là triết
lý thâm sâu của dân Anh ? Cát bụi trở về cát bụi.
Kim-cương, hay ngọc, là loại
đá quý (precious stone), hiếm có, rất khó tìm. Loại đá quý dùng làm nữ trang
gọi là “gemstones”, thường trong suốt hay có màu sắc như hồng-ngọc (ruby),
lam-ngọc (sapphire) và ngọc-bích (emerald). Riêng kim-cương thì không có màu,
trong suốt, và lóng lánh do phản xạ ánh sáng.
Kim-cương, diamond bắt nguồn
từ tiếng cỗ Hy Lạp “adámas”, có nghĩa là “không vỡ bể được” (unbreakable).
Kim-cương, graphite, viết chì, than đá, và than bếp có cùng một cấu tạo căn
bản, đó là Carbon (C). Cùng cấu tạo bởi nguyên tử C, nhưng tính chất cũng như
giá trị của các thứ này lại hoàn toàn khác biệt. Kim-cương được tạo thành ở
trong lòng trái đất, ở độ sâu từ 140 đến 190 km, tức nơi có nhiệt độ rất nóng
và áp xuất rất cao. Các nguyên tử C chứa trong khoáng chất ở độ sâu này được
tích tụ, tinh thể lớn dần qua thời gian từ 1 tỉ đến 3,3 tỉ năm để thành viên
kim-cương. Kim-cương từ trong lòng đất theo dung nham núi lửa đưa lên mặt đất.
Than củi cũng được cấu tạo bởi C trong lò than với nhiệt độ vài trăm độ, ở áp
xuất cao hơn bình thường chút đỉnh và chỉ trong thời gian 1-2 ngày.
Được thành lập trong điều
kiện nhiệt độ và áp xuất rất cao, qua thời gian gần bằng tuổi của trái đất (25%
đến 75% tuổi trái đất 4,5 tỉ năm), nguyên tử C được xắp xếp thành khối tinh-thể
có nhiều mặt. Vì nguyên tử C kết nối rất chặc, nên kim-cương rắn chắc nhất và
dẫn nhiệt tốt nhất so với các kim loại khác. Vì rắn chắc và sắc bén nhất, nên
lưỡi dao kim cương dùng cắt và mài giũa kim loại, máy tiện, và vi phẫu thuật.
Cũng vì đặc tính rắn chắc, kim-cương được dùng tạo áp xuất khổng lồ có thể tới
3 triệu atmospheres (300 gigapascals) với máy ép DAC (Diamond anvil cell).
Kim-cương cũng có thể làm vật liệu bán dẫn cho microchips và dẫn nhiệt trong
ngành điện tử.
Ngoài các công dụng trong kỹ
nghệ nói trên, kim-cương được biết nhiều nhất trong lãnh vực kim hoàn, hột
xoàn. Từ tinh thể tự nhiên tiềm ẩn trong đá, phải phá vở khối đá để tìm kim-cương,
và trong kỹ nghệ biến chế hột-xoàn, người ta cắt khối kim-cương thành nhiều
mặt, mài, đánh bóng, tạo phản xạ ánh sáng thành quang phổ lấp lánh muôn màu.
Hột xoàn được phân loại theo
4 tính chất, bắt đầu bằng 4 chữ C (4Cs): Carats (kích thước); Cut
(cách cắt thành nhiều mặt), Color (màu sắc, độ lấp lánh) và Clarity
(độ tinh tuyền, không có hoặc ít bọt, than). Giá trị hột xoàn tùy thuộc vào 4
tính chất trên, và càng hiếm thì càng có giá trị cao
Kim-cương lớn nhất là
Cullinan nặng 3.106,75 carats (tức 621,35 g). Sau khi cắt thành 9 hột xoàn lớn
và 96 hột xoàn nhỏ, mài, đánh bóng, hột xoàn lớn nhất là Cullinan I (hay Great
Star of Africa) nặng 530,4 carats (106,1 g), và Cullinan II (hay Lesser Star of
Africa) nặng 317,4 carats (63,5g), đứng hàng thứ tư trên thế giới. Cả hai hột
xoàn này thuộc hoàng gia Anh. Hột xoàn Golden Jubilee diamond lớn nhất thế giới
với 545,67 carats (109,13 g) cũng thuộc hoàng gia Anh. Hoàng gia Anh được cho
là sở hữu chủ của nhiều kim-cương, hột xoàn lớn và quý nhất thế giới. Điều đó
không ngạc nhiên, vì đế quốc Anh có một thời gian lịch sử lâu dài chiếm phần
lớn thế giới, từ Phi Châu, Nam Á Châu, Úc Châu, đến Bắc Mỹ: “Mặt trời không bao
giờ lặn trên đế quốc Anh”.
Trung Hoa cũng nỗi tiếng về
“Ngọc Tỷ Truyền Quốc”. Lịch sử Tàu kể rằng Tần Thủy Hoàng sau khi diệt được 6
nước và thống nhất toàn bộ Trung Quốc (221 trước tây lịch), quy định rằng “tỷ”
là từ dành riêng để gọi ấn của hoàng đế, và được chế và khắc trên ngọc, “ngọc
tỷ”. Còn ấn của quan văn, võ thì được chế bằng đồng.
Để chứng tỏ quyền uy tối cao
của mình, Tần Thủy Hoàng ra lệnh cho người thợ ngọc tên Tôn Thọ dùng một loại
ngọc quý nổi danh thời đó là loại ngọc họ Hòa, để tạo cho ông một “ngọc tỷ” làm
bảo vật truyền quốc, gọi là “Ngọc tỷ truyền quốc”. Ngọc họ Hòa là báu vật truyền
từ thời Xuân Thu ở nước Sở. Đến khi vua Tần diệt nước Sở thì nắm được ngọc họ
Hòa. Tôn Thọ chế ra ngọc tỷ vuông vức bốn tấc, phía trên khắc hình con rồng
cuộn khúc, tinh xảo khéo léo, phía dưới khắc tám chữ triện: “Thụ mệnh vu
thiên, ký thọ vĩnh xương”, có nghĩa là “Nhận mệnh trời ban, tồn tại
mãi mãi”. Từ đó, “Ngọc tỷ truyền quốc” trở thành vật tượng trưng ngôi vị
hoàng đế. Ai làm chủ được “Ngọc Tỷ Truyền Quốc” là như được trời ban quyền
hoàng đế cai trị muôn dân. Các vua mới lên ngôi, dù chính thống hay tiếm quyền,
đều cố tìm cách chiếm hữu ngọc tỷ để chứng minh tính cách thần thánh của mình,
vì mình là người “được mệnh làm vua do trời ban”.
Khi Lưu Bang nhà Hán tiến
quân vào Hàm Dương, vua Tần Tử Anh trao Ngọc Tỷ truyền quốc để xin hàng. Về
sau, Vương Mãng cướp ngôi nhà Hán, ép Hoàng hậu trao ngọc tỷ cho mình, nhưng
hoàng hậu từ chối, ném mạnh xuống đất nên ngọc tỷ sứt bể một góc. Về sau, Vương
Mãng bị quân khởi nghĩa giết chết, ngọc tỷ chuyền tay nhau qua nhiều người, và
cuối cùng được Lưu Tử chiếm hữu lập nhà Đông Hán. Cuối thời Đông Hán, Đổng Trác
thao túng triều đình. Tôn Kiên đem quân vào kinh đô Lạc Dương, Đổng Trác bỏ
chạy. Tôn Kiên lấy được ngọc tỷ. Tôn Kiên nghe lời Viên Thuật đem quân tiến
đánh Kinh Châu của Lưu Biểu, bị tử trận. Con Tôn Kiên là Tôn Sách phải nương
nhờ Viên Thuật. Thuật bèn cướp đoạt ngọc tỷ rồi xưng đế. Viên Thuật bị Tào Tháo
và Lã Bố đánh bại. Thủ hạ của Thuật là Từ Lục đem ngọc tỷ truyền quốc dâng cho
Tào Tháo. Tào Tháo tuy nắm được ngọc tỷ nhưng sợ mang tiếng cướp ngôi nhà Hán
nên chỉ xưng vương. Năm 220, con Tào Tháo là Tào Phi lên thay cha, phế vua Hiến
Đế lập ra nhà Tào Ngụy, ngọc tỷ truyền quốc chính thức thuộc về họ Tào.
Năm 265, Tư Mã Viêm ép vua
Ngụy là Tào Hoán phải nhường ngôi, lập ra nhà Tấn, ngọc tỷ lại rơi vào tay dòng
họ Tư Mã.
Nhà Tấn diệt vong, ngọc tỷ
lần lượt qua các triều đại Hán Triệu (Hung Nô), rồi Hậu Triệu, Nhiễm Ngụy, Đông
Tấn, Lưu Tống, Nam Tề, Lương, Trần, Tùy, Đường, Hậu Lương, Tống, Kim, Nguyên
(Mông Cổ), cuối cùng là nhà Thanh.
Ngọc tỷ truyền quốc truyền
đến vua cuối cùng nhà Thanh là Phổ Nghi. Sau Cách mạng Tân Hợi (1911), Phổ Nghi
bị phế, ngọc tỷ đưa vào Bảo Tàng Cố cung.
Như vậy “Ngọc Tỷ Truyền Quốc”
của Tàu truyền tay qua nhiều triều đại trong suốt 2134 năm.
Mặc dầu được tin tưởng hễ làm
chủ được ngọc tỷ là làm vua muôn đời, sự thật không có triều đại Trung Hoa nào
vĩnh viễn. Có sinh có tử. Đó là lẽ tự nhiên.
Kim-cương, ngọc quý, tiềm ẩn
trong đá, khó thấy được. Vì vậy, có câu “bỏ kim-cương ra, nhặt sạn đá thay vào”
để ám chỉ những kẻ u mê không thấy được người tài giỏi để dùng, mà chỉ dùng
người xua nịnh. Cũng cùng cấu tạo bởi nguyên tử Carbon, nhưng kim-cương có giá
trị khác xa với cục than. Cũng giống như con người, cũng xương thịt cũng máu
đỏ, nhưng người có “chất xám” thì ai cũng quý trọng hơn kẽ phàm phu. Ngọc chỉ
đẹp, rạng rỡ, khi được thợ kim hoàn tinh xảo mài giũa tinh vi. Con người, cũng
vậy, phải học hỏi lâu dài mới thành người tài giỏi.