Thứ Sáu, 24 tháng 8, 2012

NHẬN DIỆN TỤC NGỮ


 

NGUYỄN ĐỨC DƯƠNG 

Làm thế nào để biết một biểu thức ngôn từ [BTNT] do dân gian sáng tác ra là một đơn vị tục ngữ? Chứ không phải là thành ngữ hay ca dao? Mục đích chính của bài này là đi tìm một câu trả lời thỏa đáng cho mấy câu hỏi vừa nêu.
Theo nhiều công trình biên khảo uy tín[1], mỗi đơn vị tục ngữ [TN] dù ngắn đến đâu cũng phải là một câu. Bởi thế, chúng ta chẳng có lí do chính đáng nào để khước từ việc lấy đặc trưng ấy làm chỗ dựa chính cho việc nhận diện TN. Và một khi đã chấp nhận sự thể theo quan điểm vừa nói thì phần việc nên làm tiếp theo chắc hẳn chỉ còn là phải duyệt lại xem những BTNT nào do dân gian sáng tác ra chưa phải là câu để loại bớt khỏi kho TN của chúng ta[2].

Trong suốt sáu năm qua, chúng tôi có thử tiến hành công việc vừa nhắc với trên dưới mười sáu nghìn đơn vị được các soạn giả Kho tàng tục ngữ người Việt [3] coi là TN và thu thập vào công trình. Các kết quả thu được từ việc duyệt lại ấy đã giúp chúng tôi nhận biết sâu hơn hai điểm rất hệ trọng: (1) không vận dụng các thành quả mà Cao Xuân Hạo đã gặt hái được trong việc khảo sát cấu trúc cú pháp của câu tiếng Việt[4] vì e rất khó nhận diện được TN một cách mau lẹ và hiệu quả vì câu trong TN không được tổ chức theo mô hình Chủ ngữ - Vị ngữ (như sách vở ngữ pháp chính thống chúng ta vẫn giảng dạy trong nhà trường từ phổ thông cho đến đại học), mà được tổ chức theo mô hình Đề ngữ - Thuyết ngữ (hay gọi tắt là Đ-T), như Cao Xuân Hạo từng đưa ra và tạo được một tiếng vang lớn cả trong giới nghiên cứu lẫn trong giới giảng dạy chẳng riêng gì tại Tp. Hồ Chí Minh; (2) cấu trúc cú pháp của các kiểu câu trong TN hầu như chẳng khác gì bao nhiêu so với cấu trúc cú pháp của các kiểu câu vẫn được chúng ta hay dùng trong lời ăn tiếng nói hằng ngày.

Tiếp theo đây, chúng tôi xin lần lượt kê ra từng kiểu câu đã gặp trong kho TN Việt nhằm giúp bạn đọc có thêm một nguồn tư liệu nữa để tham khảo.

1. Kiểu câu thứ nhất

Là kiểu câu có đầy đủ cả hai phần Đ và T trên cấu trúc bề mặt, chẳng hạn:

(1) Gần mực thì đen; gần đèn thì sáng[5].
(2) Én bay thấp mưa ngập bờ ao; én bay cao mưa rào lại tạnh.
(3) Vịt già; gà tơ.
(4) Thứ nhất thịt bò tái; thứ nhì gái đương tơ.
(5) Anh thuận em hòa là nhà có phúc.

Kiểu câu này chiếm tuyệt đại đa số (tới 95% trong tổng số!) trong kho TN và cũng là kiểu câu dễ nhận biết hơn hết thảy nhờ vào hai chỉ dấu về hình thức: (a) chỉ dấu về trình tự: phần Đ của câu bao giờ cũng đặt ở trước và phần T bao giờ cũng đặt ở sau; và (b) chỉ dấu về ranh giới: biên giới giữa hai phần ấy bao giờ cũng được (có thể được) phân định rõ bằng các “yếu tố phân giới”, trong đó hay gặp hơn cả là THÌ và LÀ. Xin minh họa những điều vừa nói bằng dẫn chứng:

(1) Người có chí thì nên; nhà có nền thì vững.
(2) Ác tắm thì ráo; sáo tắm thì mưa.
(3) Thâm đông thì mưa; thâm dưa thì khú; thâm nhũ thì chửa.
(4) Thi hơi với giải thì thua.
(5) Vàng [thì] gió; đỏ [thì] mưa.
(6) Được mùa lúa [thì] úa mùa cau; được mùa cau [thì] đau mùa lúa.
(7) Giàu họ; khó người dưng.
(8) Gầy thầy cơm.
(9) Gió thổi chổi trời.
(10) Của rẻ của ôi.
(11) Công cấy [] công bỏ; công làm cỏ [] công ăn.
(12) Con hơn cha [] nhà có phúc.
(13) Tiền ở trong nhà [] tiền chửa; tiền ra khỏi cửa [] tiền đẻ.

Xét kĩ cấu trúc cú pháp của loạt câu vừa dẫn còn cho phép chúng ta nghĩ đến một phép thử vừa giản tiện, vừa hiệu quả giúp nhận biết mau lẹ và thỏa đáng nhiều đơn vị TN: muốn biết một BTNT nào đó do dân gian sáng tác ra có phải là TN hay không, chúng ta hãy thử thêm hoặc là yếu tố THÌ, hoặc là yếu tố LÀ vào những chỗ thích hợp rồi kiểm định xem biểu thức ấy có còn đúng ngữ pháp Việt nữa không và có còn giữ nguyên được nghĩa vốn có không. Nếu câu trả lời nhận được là “có” thì biểu thức ấy đích thị là TN; còn nếu là “không” thì tư cách TN của biểu thức ấy tự khắc bị bác bỏ.

Chẳng hạn, loạt biểu thức ngôn từ dưới dây:

(1) Chó treo; mèo đậy
(2) Giàu điếc; sang đui
(3) Sống tết; chết giỗ
(4) Áo cứ tràng; làng cứ xã
(5) Ăn no; lo được
(6) Năng nhặt chặt bị
(7) Chiêm hơn chiêm sít; mùa ít mùa nở
(8) Già néo đứt dây
(9) Cơm sống cơm thảo; cơm nhão cơm hà tiện
(10) Mưa tháng ba hoa đất

Sở dĩ được mọi người công nhận là TN vì biểu thức nào sau khi thêm THÌ hoặc LÀ vào những chỗ thích hợp cũng đều đúng ngữ pháp Việt và cũng đều không thay đổi nghĩa vốn có:

(19’) Chó [thì] treo; mèo [thì] đậy.
(20’) Giàu [thì] điếc; sang [thì] đui.
(21’) Sống [thì] tết; chết [thì] giỗ.
(22’) Áo [thì] cứ tràng; làng [thì] cứ xã
.
(23’) Ăn [thì] no; lo [thì] được.
(24’) Năng nhặt [thì] chặt bị.
(25’) (Thóc) chiêm (xay ra) [thì] (lợi gạo) hơn (nhưng cơm thổi lên) (thường bị) sít ; (thóc) mùa (xay ra) [thì] ít (lợi gạo bằng nhưng cơm thổi lên) (lại) nở (hơn nhiều).
(26’) Già néo [thì] đứt dây.

(27’) Cơm sống [] cơm thảo; cơm nhão [] cơm hà tiện.
(28’) Mưa tháng ba [] hoa đất.

Còn các biểu thức sau đây sở dĩ không được coi là TN do không “qua” được phép thử với THÌ và LÀ vì các biểu thức ấy đều trở nên sai ngữ pháp hoặc ngô nghê sau khi thêm THÌ/ LÀ:

(1) Mỏng mày [thì/là] hay hạt.
(2) Ăn ốc [thì/là] nói mò.
(3) Nước mắt [thì/là] lưng tròng.
(4) Lúng túng [thì/là] như thợ vụng mất kim.
(5) Cá đối [thì/là] bằng đầu.

Năm phần trăm (5%) số câu còn lại, theo tính toán bước đầu của chúng tôi, sẽ được chia ra cho mấy kiểu câu sắp đề cập dưới đây.

2. Kiểu câu thứ hai

Kiểu này được Cao Xuân Hạo (1991: 284) gọi là câu “phàm lệ” vì câu chuyên “nói về những điều được coi là “phi thời gian”, vượt ra ngoài mọi cảnh huống, trong đó phần Đ ẩn mặc thường được hiểu là phàm ở đời”; còn phần T thường được biểu thị bằng một ngữ vị từ với trung tâm là các vị từ tình thái “hãy”,“đừng” (“chớ”) hay “nên”, chẳng hạn:

(1) Bán anh em xa, mua láng giềng gần [Nên bán anh em xa đi để còn mua lấy…].
(2) Giữ được người ở, không ai giữ được người đi [Lệ thường chỉ giữ được người muốn ở, chứ làm sao mà giữ nổi kẻ muốn (ra) đi].
(3) Đừng chờm mà có ngày chấn móng.
(4) Đừng tham một bát mà bỏ cả mâm.
(5) Chớ vì nghẹn một miếng mà bỏ cả bữa ăn; chớ vì ngã một lần mà không dám bước.

Kiểu câu này vừa ít ỏi (chỉ chiếm khoảng 1,5% trong tổng số), vừa khó nhận diện (do không thể vận dụng phép thử với THÌ hoặc LÀ, như đã có thể làm với kiểu câu thứ nhất). Tuy thế, hễ chịu khó xét kĩ từng đơn vị một thì với mấy chỉ dấu hình thức đã nêu ở đầu mục, chúng ta vẫn có thể hoàn thành được công việc mà chẳng hề gặp phải một trở ngại đáng kể nào. Xin dẫn thêm ra đây một số dẫn chứng nữa để minh họa cho những điều vừa nói:

(1) Bán gà ngày gió; bán chó ngày mưa [Chớ bán gà…; chớ bán chó…].
(2) Múa rìu qua mắt thợ [Đừng múa rìu…].
(3) Ép dầu, ép mỡ, ai nỡ ép duyên [Lệ thường chỉ thấy người ta ép dầu,…; chứ chẳng mấy khi thấy người ta ép duyên…].
(4) Chết sông, chết suối, ai chết đuối đọi đèn [Lệ thường chỉ thấy người ta chết đuối dưới sông, dưới suối, chứ đâu thấy ai chết đuối trong bát dầu vốn được dùng làm đèn].
(5) Bắt người bỏ giỗ, không ai bắt người cỗ bé [Lệ thường người ta chỉ bắt lỗi kẻ bỏ cỗ, chứ chưa thấy ai bắt lỗi…].
(6) Giúp lời, không ai giúp của; giúp đũa, không ai giúp cơm [Lệ thường chỉ thấy người ta giúp lời, chứ đâu thấy ai giúp của…].
(7) Làm khi lành để dành khi đau [Nên làm khi khỏe mạnh để còn có cái mà ăn khi ốm đau].
(8) Làm thầy nuôi vợ; làm thợ nuôi miệng [Nên làm thầy để còn nuôi được vợ; đừng làm thợ vì chỉ nuôi được miệng mà thôi]
(9) Chớ thấy sóng cả mà ngã tay chèo
(10) Chớ dung kẻ gian; chớ oan người ngay
(11) Chớ thấy đỏ mà ngỡ là chín
(12) Đừng tham ăn nhiều mà nuốt khó trôi
(13) Đừng khinh khó [= nghèo]; chớ cậy giàu.

3. Kiểu câu thứ ba

Là kiểu câu khuyết hẳn phần T, nên trên cấu trúc bề mặt chỉ còn gặp có phần Đ. Phần Đ trong những câu kiểu này thường được biểu hiện dưới hai dạng có cấu trúc cú pháp khác nhau chút đỉnh:

(a) Dạng do một ngữ danh từ/ ngữ vị từ biểu thị, chẳng hạn:

(1) Chim; thu; nhụ; đé
(2) Ruồi vàng; bọ chó; gió Than Uyên
(3) Lá rau muống; cuống rau giền
(4) Cơm nhà; gà chợ
(5) Đau đẻ; ngứa ghẻ; hờn ghen;

(b) Dạng do một tiểu cú biểu thị, chẳng hạn:

(1) Cơm chín tới; cải ngồng non; gái một con; gà gại ổ
(2) Lợn [nhốt ở] chuồng chái; gái [thấp thoáng bên] cửa buồng
(3) Gà lấm lưng; chó sưng đồ
(4) Gà luộc lại; gái ngủ ngày
(5) Gái thở dài; trai nằm sấp
(6) Làm không chúa (= chủ); múa không trống
(7) Lớn chuối hột; bé hạt tiêu
(8) Gái thương chồng đương đông buổi chợ; trai thương vợ nắng quái chiều hôm[6]
(9) Tiền vào nhà khó như gió vào nhà trống
(10) Gái còn son không bằng tô don Vạn Tượng.

Khác với kiểu câu thứ hai, kiểu này chiếm một tỉ lệ cao hơn chút ít (vào khoảng già 3,5%) và cũng dễ nhận diện hơn chút đỉnh một khi chúng ta vừa tiến hành xác lập cấu trúc cú pháp, vừa tiến hành diễn giải ngữ nghĩa cùng lúc.

4. Kiểu câu thứ tư

Đây là kiểu câu ít gặp hơn hết thảy trong kho TN Việt vì cho tới bây giờ, chúng tôi vẫn chỉ mới tìm được vẻn vẹn dăm ba câu mà thôi:

(1) Ráng mỡ gà, ai có nhà thì chống
(2) Bạc tỉnh Tuyên [Quang], ai có duyên thì được
(3) Cơm hàng, cháo chợ, ai lỡ thì ăn
(4) Chim trời, cá nước, ai được thì ăn.

Cao Xuân Hạo gọi đây là câu ngoại đề (còn ba kiểu câu vừa mô tả bên trên là câu nội đề) vì bên cạnh phần nội đề (trong mấy câu vừa dẫn đều do ai diễn đạt), trong những câu đang bàn còn có một phần Đ nữa gọi là ngoại đề (phần được gạch chân trong các dẫn chứng vừa nêu). Phần này vốn không nằm trong cấu trúc cú pháp của câu và có thể dễ dàng tách ra thành một câu riêng, bởi lẽ nó chỉ gắn bó với phần câu còn lại về mặt nghĩa (chứ chẳng phải về cú pháp!), chẳng hạn:

(70’) Chim trời, cá nước ấy mà (có phải của riêng ai đâu mà cứ muốn giữ lấy). (Bởi thế) ai bắt được thì kẻ ấy được quyền ăn.

Tỉ lệ quá ít ỏi của kiểu câu này có thể cho phép chúng ta mạnh dạn bỏ qua một khi chúng ta không quá duy mĩ: không coi trọng quá đáng tính toàn bích của bức tranh muốn phác hoạ.

N.Đ.D
(SH282/08-12)





[1] Chẳng hạn, như :
- Việt Nam văn học sử yếu: (Tục ngữ là) “một câu tự nó phải có một ý nghĩa đầy đủ, hoặc khuyên răn, hoặc chỉ bảo điều gì” (Dương Quảng Hàm 1951 [1943]: 15) (dẫn theo Triều Nguyên 2006: 19);
- Tục ngữ - ca dao - dân ca Việt Nam: [Tục ngữ là] “một câu tự nó diễn trọn vẹn một ý, một nhận xét, một kinh nghiệm, một luân lý, một công lý, có khi là một sự phê phán. […] tục ngữ dù ngắn đến đâu cũng phải là một câu hoàn chỉnh” (Vũ Ngọc Phan 1978 [1956]: 36-7) (dẫn theo Triều Nguyên 2006: 19);
- Từ điển tiếng Việt: (Tục ngữ là những) “câu ngắn gọn, thường có vần điệu, đúc kết những tri thức, những kinh nghiệm sống và đạo đức thực tiễn của nhân dân” (Hoàng Phê cùng các cộng sự 2005 [1988]: 1062).
[2] Khi loại bớt các biểu thức ngôn từ do dân gian sáng tác ra chưa thành câu, chúng ta cũng nên loại bỏ luôn cả những biểu thức đã thành câu nhưng được ghi lại dưới hình thức lục bát
(/song thất lục bát), như:
Lúa mùa thì cấy cho sâu/ Lúa chiêm thì gãy cành dâu là vừa,
Thế gian dại lắm, chưa khôn/ Sống mặc áo rách, chết chôn áo lành,
Tậu trâu, lấy vợ, làm nhà/ Trong ba việc ấy thật là khó thay,
Chồng cô, vợ cậu, chồng dì/ Trong ba người ấy chết thì không tang,
Ăn được ngủ được là tiên/ Không ăn không ngủ là tiền bỏ đi,
cũng như lục bát biến thể (/song thất lục bát biến thể), như:
Làm nhà cạnh đàng/ Kẻ rằng dùng dắng, người rằng kéo co,
Thâm đông, hồng tây, dựng may/ Ai ơi ở lại ba ngày hẵng đi,
Rễ si đâm ra trắng xóa/ Mưa to gió lớn hẳn là tới nơi,
vì mấy lẽ: (1) lục bát là thể thơ đặc trưng cho ca dao, chứ không phải cho TN; (2) thu nạp thêm cho TN một lượng khá đông đúc những đơn vị vẫn được giới sưu tập ca dao đưa vào các công trình của họ (xin đối chiếu với Kho tàng ca dao người Việt) là quá chuộng số lượng mà coi nhẹ chất lượng và quá phung phí cả công sức lẫn thì giờ.
[3] Xin x. Nguyễn Xuân Kính - Nguyễn Thúy Loan - Phan Lan Hương - Nguyễn Luân 1992.
[4] Xin x. Cao Xuân Hạo 1991. Tiếng Việt. Sơ thảo ngữ pháp chức năng.
[5] Để giản tiện, chúng tôi coi mọi đơn vị tục ngữ được ghi lại dưới dạng câu ghép kiểu này như là câu đơn, bởi lẽ các vế câu hợp thành của nó bao giờ cũng là những vế có cấu trúc cú pháp giống hệt nhau và gắn kết với nhau bằng mối quan hệ đẳng lập.
[6] Riêng về câu TN này, xin x. chi tiết hơn trong Nguyễn Đức Dương 2007: 42-4.