Trần
Chiến
Ngôn
ngữ chứng tỏ gốc văn hóa của một dân tộc, xem nó dày mỏng đến đâu,
“ăn cóp” cái gì của nước người. Căn cứ vào câu này mà nhìn tiếng
Việt ta thì phải rất tự ty. Nam Giao Học Tổ là một ông Trung Hoa, có
dễ trước khi Sĩ Nhiếp đem chữ Hán sang thì sử chỉ là huyền thoại,
truyền thuyết truyền mồm nhau, ông kể khác cụ, truyền từ bố sang con
đã thất bản lắm rồi. Có chữ, tức chữ Hán, sau lại có đạo, tức
đạo Khổng đạo Phật đạo Lão, mọi thứ được “chỉnh đốn”. Sự học mới
cho phép mở ra khoa thi, chọn người tài nói năng, nghĩ ngợi lắm lúc
hệt những khuôn mẫu trong sách vở Bắc quốc.
Dường
như phải ở cạnh một Trung Hoa lắm tham vọng mà nảy nở ra những phản ứng
(?) tự tôn, hoặc một nhu cầu tự vệ văn hóa. Chữ Nôm được hình thành,
rồi chính thức khai sinh, có thể trở thành một “biểu tượng dân tộc”
nhưng dường như chưa đủ tầm để thế chữ Hán. “Dòng” Hán Nôm vì thế ra
đời chăng?
Kể
ngần nấy ra thì thấy tự ty, không mạnh miệng dân mình có gốc rễ ngôn
ngữ sâu xa. Nhất là khi xem phim Tây du Trung Quốc làm, thấy Tôn Ngộ
Không cứ “sư phò” mà réo Đường Tăng; từ đấy mà sang “sư phụ” có một
téo.
Nhưng
rồi ta lại có chữ “tiếp biến văn hóa” nó hỗ trợ, chống lưng cho.
Lấy này kia trong văn hóa của người thành của mình thì có gì phải
xí hổ, nhất là khi “phát huy” chúng lên thành những điểm mạnh còn
hơn cả ở đất gốc. Sự nhào trộn cả tam giáo được gọi rất khéo là
“đồng nguyên”, “phối kết hợp” với đạo Mẫu thuần bản địa vẫn cho ra
tâm hồn dân tộc đấy thôi. Kíp khi ông nhà văn Mác-két “tung” ra khái
niệm “văn hóa lai” thì mọi thứ ổn cả. Cả châu Mỹ hợp phối văn hóa
da đỏ với những “thức”của châu Âu, do các chị trốn tù anh đào vàng
lão quý tộc thất sủng đem sang, chả sống khỏe đây thây, việc gì mà
ta xét nét mình quá nó mất cả hồn nhiên đi.
Trên
đây là chút chút mào đầu “ný nuận” cho sự kể tiếng ta trôi thế nào.
Và cũng chỉ kể những gì được những cái người chứng kiến kể lại
thôi, xa xưa nữa đâu có tường…
*
Khoảng
năm 1915-1917, những hoạt động khoa cử theo Nho giáo cuối cùng diễn ra. Giai
đoạn phổ biến tiếng Pháp cho tầng lớp trên, sau đó là Quốc ngữ cho đại chúng
bắt đầu. Quốc ngữ, trên một chừng mực, mang theo tinh thần dân tộc, được cách
mạng tận dụng triệt để trong công cuộc chống ngoại xâm, đã có sức sống mạnh mẽ.
Vả chăng nó có những lợi thế rõ ràng để phổ cập: đánh vần được, âm thanh thì
vẫn ta mà con chữ lại “gần gần” của người Tây phương. Tức là học nó rất dễ,
nâng cao dân trí, tuyên truyền cách mạng nhanh chóng. Trong thôn hương, bên
cạnh những ông đồ lại có trí thức bình dân, trình độ cao hơn cộng đồng nhưng
“ăn nói dễ hiểu, ít tầm chương trích cú”. Giáo sư Đặng Văn Ngữ kể chuyện
khi trở về nước, thấy dân làng nọ phải đánh vần “a bờ cờ” được mới có thể đi
qua trạm kiểm soát để vào chợ, ông đã run lên vì cảm động.
Tuy
chả phải độc tôn, chủ yếu ở tầng lớp trên, tiếng Pháp vẫn là tấm “thông hành”
để trở thành trí thức thượng lưu hay chiếm vị trí quyền lực thực sự trong bộ
máy cai trị (chỉ chữ Nho không thì nhiều khi chỉ có hư quyền). Chả thế mà có
một tầng lớp làu thông cả Nho lẫn Pháp, như “Tứ hổ Tràng An” Quỳnh - Vĩnh - Tố
– Tốn, không chỉ có thể phiên dịch mà còn tư duy được bằng hai ngữ ấy. Nhưng
chữ Nho “đứt” dần. Văn hoá Pháp, lợi quyền làm quan quyến rũ lớp người trẻ.
Người Việt, hình như không có âm “pờ”, bắt đầu làm quen với “pin”, “pích”,
“poóc – ba – ga”, “ping – pông”, “pê – nan – ty”... Người “có chữ” là phải
biết đến chấm, phảy, xuống dòng, mệnh đề, khác hẳn mấy sinh đồ trẻ
đố nhau đánh dấu một văn bản. Giới bình dân biết đến những “xà
phòng”, “phi dê” đã Việt hóa, hát “Học sinh cao bồi mặc áo sơ mi ca
rô” rất thuần thục.
Giống
như mọi xứ, sự tiếp biến ngôn ngữ ở ta cũng có sắc thái hài hước, tức là pha
trộn theo nguyên tắc phải gây cười. Các cụ Nho – Tây làm thơ tứ tuyệt bằng âm
“tây” rất đúng âm luật:
Đờ
puy cờ giơ tơ cổn nét
Giuýt
ki xì xít xết an nê
Ẳng
tăng đồng xíp lê xà lúp
Tú
xơ là xà cúp mông cơ
(Từ
khi em biết anh đến nay đã sáu bẩy năm rồi, (giờ) nghe tiếng còi tầu thuỷ thét
vang như xé tim em)
Đây
chắc là “cõi lòng” của một “me” khi gã “quỷ hồng mao” “ngược” về trời tây. Có
những câu khác, mang sắc thái chế giễu nhiều hơn, nhắc lời bồi ta tả con cua
cho chủ tây: “Luý to cẩm manh, luý a uýt cẳng đơ càng, luý cắp đau chết cha, rô
ti luý thơm cẩm nước hoa, măng giê luý bố cu bồng quên chết”, tức là “nó to
bằng bàn tay, tám cẳng hai càng cắp đau chết cha, rán lên thơm như nước hoa, ăn
ngon quên chết”. Lại có những “từ” được phiên sang âm Hán, chả biết nghiêm túc
đến đâu, như gọi máy chữ là “cơ khí tự”, đánh máy chữ là “đả cơ khí tự”, người
đánh máy là “đả cơ khí tự viên”.
Rồi
đánh Pháp, tinh thần dân tộc, tinh thần giai cấp trên hết, tiếng Tây lắm lúc
như hủi. Những đốc tờ thầy cãi theo kháng chiến gặp nhau nói tiếng Tây như ăn
cắp, chỉ sợ bị đánh giá. Chiến dịch Biên giới nổ ra, cùng với những ảnh hưởng
của Trung Quốc, âm Hán (bạch thoại?) hoặc trở lại hoặc tràn vào, như “phương
vị” của pháo binh, “thổ cải” thời cải cách ruộng đất. Những “hoả xa”, “lý
trình” của ngành giao thông còn mãi đến ngày nay.
Tiếng
Nga có vị thế từ những năm sáu mươi, lưu học sinh mang về, nhà trường cũng dậy.
Văn hoá Nga làm thổn thức bao thế hệ, lính đánh Mỹ ra trận nhiều người trong ba
lô có thơ tình Ôn – ga Béc – gôn. Nhưng quá khó, và việc dậy dỗ cũng tam khoanh
tứ đốm, nó chưa kịp mọc rễ đã bị tranh chỗ khi thời thế thay đổi. Phải nói là
trong khoảng ba chục năm của thế kỷ trước, từ ’60 đến ’90, việc dậy ngoại
ngữ trong trường phổ thông, đại học ở Hà Nội tạo ra một lớp trí thức “kinh qua”
cả Trung Nga Anh Pháp văn nhưng ngữ nào cũng ngọng. Chữ Hán thì hoàn toàn mù
tịt rồi, thành thử vươn ra thế giới hiện đại thì khó quá, mà quay về với quá
khứ lại tắc tị. Nghĩa là nẻo vào các nền tri thức khác bít kín. “Tắm ao ta”
nghìn phần trăm, tù đọng.
Tiếng
Nga nay còn lại trong người vui tính, có lẽ là những “Tình hình xây chác (bây
giờ) có gì nố vưi (mới)?”, hay “I a tôi cũng tố gie”.
*
Vụt
cái đã sang thời của tiếng Anh. Nói thế vì bao người “sôi Nga nấu Pháp”, thoắt
cái thấy mình lạc hậu. Tài liệu, thông tin, môi trường làm ăn, giao tiếp...,
đâu đâu cũng là “thằng” Ăng lê. Cách chuyển ngữ tạo ra những thắc mắc
kiểu sao cái nhà cao lại gọi “tháp”, cái nhà thật to gọi “thành
phố”… Thế kỉ XXI sập đến với những “com piu tơ”, “lép tóp”, mạng “gút gồ”, chả
biết tiếng Anh thì “thôi rồi nghỉ cho khoẻ”. Những chuyên gia lành nghề phải
nhả suất du học cho đứa trẻ ranh. Những bộ trưởng về hưu cố một học bổng Anh
quốc. Những giáo viên tiếng Nga đang nuôi con nhỏ giằn lòng chuyển sang tiếng
Anh. Không chỉ là chìa khoá mở vào tri thức, văn hoá, nó còn là phương tiện
sinh nhai hay tiến thủ đến quyền lực.
Lại
giống cách nay dăm bẩy chục năm, con đường phổ biến tiếng Anh cũng có sắc thái
hài hước. Học sinh, thanh niên, do nhu cầu học mà chơi, chơi mà học, “sáng tạo”
ra những “giải pháp thông dịch” đánh đố nhau. Sugar you you go, sugar me me go
tức là “đường anh anh đi, đường tôi tôi đi”. “Rùng rợn” hơn, I love toilet you
go go là “tôi yêu cầu anh đi đi”. Nhả nhớt, nghịch ngợm, dường như là một phẩm
chất không thể thiếu của sự tiếp biến văn hoá nghiêm túc.
*
Trôi
giữa các dòng chẩy không thể nói là hiền hoà, tiếng Việt ta đã tiếp nhận, biến
đổi thật nhanh. Sinh ngữ như một cơ thể hồn nhiên, chịu ảnh hưởng của thời thế
- cái liên tục thay đổi. Và càng là đô thị thì thay đổi càng chóng mặt. Có cái
cảm giác người Việt tiếp nhận những ảnh hưởng ngôn ngữ rất hồn nhiên, và bộc lộ
luôn sự tự ty về văn hoá. Thứ tiếng cổ, thuần khiết chỉ còn nơi những bà còng
tỉ mẩn gà qué ở quê, cụ mà lên tỉnh khéo lắm khi thành ra đi nước ngoài. Lắm
nhà văn, lắm ông nghiên cứu ngôn ngữ thích đôi hồi với các cụ là vì sợ tuột mất
những nôm na, phương ngữ...
“Trôi”
về đâu, như thế nào, thì rất bộn bề, và nó dành cho nhà nghiên cứu. Trên phương
diện một nhà báo, người viết cứ “dựng” tạm lên mấy xu hướng sau:
-
Bình dân hoá. Cách nói, viết không cần chuẩn, cốt hiểu được. Từ mới phát sinh
theo những “quy luật” thật vui: “vấn nạn”, “cảnh báo”, “hơi bị hay”... Do tiếng
Việt dậy trong trường phổ thông, thậm chí trường báo chí khá nham nhở, nhiều
tòa soạn dùng bài sử dụng từ sai, câu không đủ thành phần. Quy tắc viết hoa,
phiên âm dường như không có. Nhiều hàng ăn, có lẽ nghĩ đến câu “ăn cơm Tàu”,
dựng biển có chữ “quán” sau cùng, thậm chí cả “Dân tộc quán” dù cách ghép từ
này chả hề dân tộc. Văn viết là vậy, văn nói – chủ yếu trên truyền hình – lại
càng lơ lớ. Lơ lớ nhưng lại là thời thượng.
-
Quốc tế hoá. Thời tiếng Tây, người đô thị học nói “phi dê”, “gác đờ bu”, “sếp”.
Sang thời nay, câu bị động sử dùng nhiều: “Nàng bị quấy rối tình dục bởi giám
đốc”, “hội ăn thịt chó dẫn đầu bởi kẻ vừa trúng mánh...”. Chả biết đến một lúc
người ta có nói “mắm tôm dậy mùi bởi chanh” không? “Đến từ” là một cách nói
sành điệu thì vừa rối rắm lại rất đáng ngờ về sự chính xác. “A. xếp sau B.
trong danh sách phá lưới với 3 bàn ít hơn” thật lơ lớ nhưng rất được ưa dùng.
Sắc thái, tiếng vang trong âm nước ngoài thấy rõ trong những “xâu (show) diễn”,
“đi toa lét”, “nâu (no) vấn đề”... Lối thoại cộc, ít từ phái sinh kiểu “à ư nhỉ
nhé”, có lẽ ảnh hưởng từ văn hoá bình dân Mỹ được dùng nhiều. Và một điều không
thể không lan đến tiếng ta là cách xưng hô dân chủ, ít tôn ty, chỉ dùng có vài
đại từ nhân xưng của người Âu Mỹ. Có thể vì điều này mà những người của công
chúng, khi xuất hiện trước đám đông thường xưng tên, vừa giản tiện vừa không
mất khiêm nhường. Cái cách xưng tên này cũng được đã vài lão sáu mươi sử dụng,
đã sinh ra hiệu quả hài hước.
-
Cá thể hoá. Những tập người khác nhau về tuổi tác, văn hoá, tầm mức kinh tế...
có cách “lập ngôn” khác nhau rõ ràng. Rõ nhất là trong câu thoại, diễn ra trong
cộng đồng của họ. Văng tục đa phần bị cho là thiếu văn hoá, nhưng nhiều người
bảo không thể trộn nó với cách nói tục; “nói” khác với “văng”, có chọn lựa, để
thể hiện một nội dung không có cách thể hiện khác. Báo “Người cao tuổi” không
“híc híc” như “Hoa học trò”, báo Đảng nghiêm trang, giọng giầu chính luận hơn
báo đoàn thể. Cùng một báo, chuyên mục này luôn phải giữ tính định hướng, giáo
huấn, trong khi chuyên mục khác cứ phải bông phèng mới xong. Lứa 8X nói khác
lứa 9X. Lại có loại “văn” chít chát, nhắn tin, tất nhiên lấy ngắn gọn làm đầu,
tỉ như “j” là “gì”, “ko” là “không”, “k” là “nghìn (đồng)”. Có người đặt vấn
đề về vai trò “văn mạng”, nhưng cho đến lúc này, những “tác phẩm” đ¬a lên
mạng mà đứng lại được đều phải chỉn chu cả về nội dung lẫn nghệ thuật. Còn đâu,
do chả ai biên tập, chả phải chịu trách nhiệm nhiều lắm, đa phần mỏng manh
trước thử thách trường tồn; nghĩa là giá trị chính của mạng vẫn là ở chỗ “ai
đến ai đi cũng được”, nghĩa là còn lâu nó mới trèo được đến vị trí của “văn học
giấy”.
*
Tiếng
Việt dễ tiếp nhận các ảnh hưởng, và người Việt cũng hồn nhiên giữa các tiếp
biến. Vì thế, rất khó đoán các xu hướng trên phát triển đến đâu. Nhưng chúng ở
ngoài ta, ghét hay thích chúng cứ độc lập vận động. Sinh ngữ là vậy, luôn luôn
mở, ngọ nguậy đón chào không nghỉ, cái vừa là mới đã có thể thay bằng cái
khác. Có lẽ vì thế mà sách, tạp chí, nhất là báo (báo mạng thì “thôi rồi”)
không ai có thể chuẩn hoá được việc viết hoa, để nguyên hay phiên âm tiếng nước
ngoài... Không ổn định tức là không định hình, thì chuẩn hóa thế
nào, dù ai ai cứ gào lên mãi.