VHNA: Ở Việt Nam, giáo dục nói chung và giáo dục đại học nói
riêng đang là mối quan tâm lớn của xã hội. Chúng tôi giới thiệu
bài thuyết trình của Giáo sư Trần Văn Đoàn - Đại học Quốc gia Đài Loan, tại lễ
khai giảng năm học 2009 - 2010 của trường này với hy vọng bạn đọc có thể tham
khảo. Bản dịch sang Việt ngữ là của tác giả.
1. Lời Nói Đầu
Đặt lại vấn đề về Sứ Mệnh
ĐHQGĐL
Trên 35 năm hành nghề “buôn óc
bán phổi” ở nhiều đại học, đây là lần đầu tiên (và chắc hẳn cũng là lần duy
nhất) tôi tham dự lễ khai giảng. Tôi “bị” Giáo sư Lý, ngài Hiệu trưởng
“tự cử dân bầu” của chúng ta, “phạt” phải tham dự.
Có phải vì Lý Hiệu trưởng biết
tôi vốn “lười họp biếng hành”, chưa bao giờ tham dự bất cứ lễ khai trường hay
tốt nghiệp nào, nên “ép buộc” tham dự buổi lễ năm nay chăng? Cũng có thể vì biết rằng
tôi sắp tới tuổi về “hành nghề Ô-sin”, nên ngài hiệu trưởng phải tận dụng “bóc
lột” sức lao động cuối cùng chăng? Nhưng dù thế nào đi nữa, đây là một
vinh dự. Xin
chân thành cám ơn Lý hiệu trưởng đã có nhã ý dành cho tôi cơ hội chia sẻ với
các bạn sinh viên đồng học và quý đồng nghiệp về một vấn đề mà chúng ta thao
thức đeo đuổi. Về chính cái lý do “tồn tại” của đại
học chúng ta (“to be or not to be” theo William Shakespeare (1564-1616)). Về cái lý do tại sao các bạn sinh
viên nằm gai nếm mật để có thể nhập đại học này. Về cái động lực thúc đẩy quý đồng nghiệp không
màng tiền bạc (và có lẽ, bỏ vợ bỏ con ở nhà), miệt mài trong phòng thí nghiệm,
hy sinh đời mình cống hiến cho đại học. Vâng tôi muốn
đặt lại cái sứ mệnh của Đại Học Quốc Gia Đài Loan (ĐHQGĐL) của chúng ta, một
điều mà cho đến nay ít thấy ai bàn luận. Tôi muốn đưa ra một lối nhìn khác, phải coi sứ mệnh là
chính cái sử mệnh của chúng ta.
Ngạn ngữ có câu “trung ngôn, nghịch nhĩ”. Tôi
thì chẳng có “trung ngôn” nhưng lại thích “loạn ngôn”, nên hy vọng Lý hiệu
trưởng và ban giám hiệu sẽ không hối hận vì đã “trót dại” dành cho tôi dịp nói
chuyện này. Quý vị có thể sẽ ngứa tai,
nhưng xin đừng rửa tai sau bài nói chuyện.
Cũng đừng đổ cho tôi cái tội “đầu độc, làm băng hoại sinh viên”, cái tội mà nhà
hiền triết Socrates vì đó đã bị án tử hình. Tôi
chưa xứng đáng làm đồ đệ cho vị triết gia này, và dĩ nhiên tôi chẳng dại gì
(hay đúng hơn, thiếu can đảm) tự sát như ông ấy. Ít nhất tôi chưa phải “chiến đấu”với một phụ nữ như Xythander,
bà vợ “hiền dịu” hơn cả “mãnh hổ Sơn Đông” của Socrates.
2. Sứ
Mệnh và Sử Mệnh của ĐHQGĐL
Câu hỏi đặt ra, đó là tại sao lại phải bàn về sứ mệnh. Không phải đó chính là cái sứ mệnh
“Đôn Phẩm, Lập Học, Ái Quốc, Ái Nhân” thấy trên huy
hiệu của Trường, mà Nhà nước Trung Hoa Dân Quốc đã nhồi nhét vào đầu sinh viên
ngay vừa khi họ tiếp thu Đại Học ế Quốc Đài Bắc Taihoku) từ Nhật đó sao? Đó không phải
là cái mục tiêu lọt vào trong nhóm 100 trường nổi tiếng nhất thế giới mà ban
giám hiệu đã đặt ra dịp sinh nhật 80 của Trường tháng 11 năm 2007, và nhờ đó mà
đã vòi vĩnh quốc hội được hàng trăm triệu Mỹ kim mỗi năm hay sao?
Ý kiến của tôi xem ra đi ngược
với lối nhìn của nhiều nhà (chứ không phải tất cả mọi giới) lãnh đạo giáo dục,
và dĩ nhiên, đối nghịch với nhà nước Trung Hoa Dân Quốc. Tôi không nghĩ mục đích của chúng ta chỉ nhắm vào việc
“lọt vào” số 100 trường giỏi nhất thế giới (mặc dù chúng ta bắt buộc phải thuộc
hàng đầu thế giới), và tôi càng không nghĩ là tám chữ vàng son “Đôn Phẩm, Lập
Học, Ái Quốc, Ái Nhân” phải là cái sứ mệnh riêng của chúng ta.
Lý do thật đơn giản. Khi nhà nước Quốc Dân Đảng (và
trước đó, mọi triều đại) ép buộc chúng ta phải nuốt chửng tám chữ vàng đó, họ
muốn chúng ta trở thành một đàn bò, đàn dê, đàn cừu... Giáo dục nhồi sọ nhắm sản xuất loại sữa chua loét
khoét thủng dạ dầy. Nó không thể tạo ra loại sữa ngọt bổ dưỡng
thân thể. Đó chính là mục tiêu của bất cứ một chế
độ chuyên chế nào. Trường học chẳng khác trại
lính, hay công xưởng là bao. Vậy thì, thử hỏi, có trường đại học nào trong một chế độ
chuyên chế khác với đại học chúng ta? Mục đích như vậy
đâu có phải là đặc thù của riêng ai đâu? “Đôn
phẩm,” rồi “lập học,” rồi đao to búa lớn hơn, “ái quốc", “ái nhân",
đã được nhồi nhét vào đầu óc các em học sinh ngay từ nhỏ, và cả hàng trăm, hàng
ngàn năm nay. Chúng ta đâu còn xa lạ
gì với những khẩu hiệu “trung quân, ái quốc” đầy rẫy trong sách vở, trong những
lời tuyên huấn mà giới trẻ nhàm chán. Đó là những thực phẩm
“bổ béo” nhưng không thể tiêu hóa, những đồ uống sang trọng nhưng “càng uống
càng khát”. Đó là những “bộ áo” của những ông vua tự sướng với ảo giác
“oai phong, lẫm liệt”. Bộ áo đã chẳng che đậy được cái thân thể xấu xí, mà ngược lại
càng lột trần cái sự ngu dốt của ông ta.
Thực vậy, từ thời đức Khổng Tử tới nay, chúng ta đã có được mấy
ai “yêu người” thực sự, “yêu nước” theo đúng nghĩa? Yêu nước đã biến thái thành
“yêu vua”, “yêu chúa”, “yêu đảng”, “yêu lãnh tụ”, chứ có phải là yêu nước là
yêu dân như thầy Mạnh Tử dạy đâu!
Và cả bao ngàn năm “lập học” rồi, nhưng tại sao đại học hàng đầu của chúng ta
cứ lẹt bẹt cầm đèn đỏ cho những đại học hàng đầu Anh, Mỹ?
Mọi người chúng ta đều thấy, bất
cứ trường nào ở hai bên eo biển Đài Loan, và cả ở những vùng nói tiếng Trung
cũng đều có những khẩu hiệu rất hoành tráng, to tát vĩ đại (nhưng không thực
tế, hay đúng hơn, không tưởng) như thế cả. Nếu mà ai cũng
như nhau thì làm thế nào ĐHQGĐL của chúng ta có một chỗ đứng duy nhất trong xã
hội người Hoa, và trong thế giới? Nếu cứ vậy mãi thì làm sao
trở thành lãnh đạo?
Rồi cái mục tiêu nằm trong 100
đại học hàng đầu của thế giới thì lại càng “vớ vẩn” hơn nữa. Lấy
tiêu chuẩn nào để xếp hạng? Câu hỏi này vẫn còn
chưa có một câu trả lời nào được đồng thuận. Nếu theo Times Higher Education
Supplement (THES), và theo Quacquarelli Symonds (QS), thì hiện nay chúng ta đã
nằm trong cái danh sách 100 của thế giới học thuật đó rồi(1). Nhưng chúng
ta có được nhìn với ánh mắt mà thiên hạ dành cho Harvard, Cambridge, Oxford,
Princeton... chưa?(2) Viện Công Nghệ của chúng ta xếp hạng 29 trên
thế giới, nhưng có được để ý như Massachusetts Institute of Technology (MIT)
hay California Institute of Technology (Caltech) không? Khoa Triết Học của chúng ta cũng xếp rất hoành tráng,
hạng 43 trên thế giới(3). Nhưng thử hỏi có lý
thuyết gia nào ảnh hưởng tới thế giới không. Khoa Triết của ĐH Frankfurt, xếp đồng
hạng với chúng ta, nhưng họ có cả hàng chục triết gia như Jurgen Habermas,
Theodor Adorno, Max Horkheimer, Karl Otto Apel... những triết gia thực sự ảnh hưởng sâu rộng tới cả thế giới từ bao
năm nay. Còn chúng
ta?
Mang danh nằm trong “tốp 100”, nhưng sự thực (đáng xấu hổ), đó là chúng ta chỉ
biết bám đuôi làm chú bé xách giầy cho Harvard, Oxford, Cambridge, Princeton,
Yale...
nhưng lại kiêu căng tự mãn với cái hư danh “Harvard Đài Loan”, “Harvard Trung
Quốc”.
Tôi thiển nghĩ, mục đích hay sứ
mệnh (mission) của chúng ta phải cùng một lúc là sử mệnh (historical destiny). ĐHQGĐL phải tạo ra lịch sử, một lịch sử định đoạt cái số mệnh của
Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan), ảnh hưởng sâu rộng tới Trung Quốc Đại lục, và
đóng góp vào việc thay đổi số mệnh của nhân loại. Để vừa là sử mệnh, vừa là sứ
mệnh, ĐHQGĐL bắt buộc phải là một đại học lãnh đạo theo đúng nghĩa của nó. Lãnh đạo là đi
tìm đường; lãnh đạo là dẫn đường; lãnh đạo là chỉ đường; lãnh đạo là xây
đường... Nói một cách đơn giản: lãnh đạo là người đi
trước. Đi trước trong mọi lãnh vực
trên thế giới là đại học đẳng cấp thế giới. Đi trước trong phạm vi nhỏ hẹp, hay trong một
không gian, thời gian nhất định, là đại học đẳng cấp quốc gia, hay vùng, hay
của một ngành nào đó. Ước vọng của chúng ta không chỉ đào tạo lãnh đạo cho Đài Loan
mà còn cho toàn thế giới và cho mọi ngành. Uớc vọng của ĐHQGĐL phải là đẳng cấp thế giới theo đúng
nghĩa của đẳng cấp.
Để biện minh cho quan niệm này, tôi xin bắt đầu với việc đòi hỏi
phải thay đổi lối nhìn của chúng ta về sứ mệnh đại học.
Thứ đến, tôi xin bàn về những đặc tính hay thành tố tạo nên một đại học lãnh
đạo (với tựa đề “Khi Sứ Mệnh Biến Thành Sử Mệnh”).
Và phần thứ ba kết luận, tạm đưa ra một phương hướng để hoàn thành sứ mệnh tạo
ra lịch sử (với tựa đề “Đường Ta Ta Đi”(4).
3. Hãy Thay
Đổi Lối Nhìn
Chúng ta từng sống trong một thế giới nhỏ hẹp và đóng kín. Vì vậy mà
chúng ta nghĩ rằng, chúng ta là trung tâm vũ trụ (cái tên Trung Quốc tự nó đã
phản ánh một cách rất trung thực lối suy nghĩ ngô nghê thiển cận này). Thế giới của chúng ta đã không cần một ai ở
ngoài, hay từ trong thoát ra ngoài rồi trở lại, nói cho chúng ta biết tất cả sự
thật về thế giới bên ngoài. Bởi vì chúng ta đã
tự tôn tự đại cho mình nắm được chân lý. Giống như nhóm tù nhân trong huyền thoại
“Sơn động” của đại triết gia Plato(5), chúng ta không những gạt bỏ người dám
nói lên sự thật, mà còn tố khổ họ, hoặc sát hại họ. Người Nhật của thời Minh Trị (1868-1912) đã nhận ra sự thật
sau phát súng thần công của đô đốc Matthew C. Perry ở vịnh Edo (vịnh Tokyo) vào
năm 1852. Họ biết khiêm cung chấp nhận sự
trội vượt của thế giới Tây phương. Họ gửi người
đi học tập, và nghiêm túc tiếp thu Tây học(6). Và điều này làm lên sự khác biệt giữa
Trung Quốc và Nhật Bản: một nước trì trệ, một nước tiến bộ.
Trong một thế giới đóng kín, và tự cao tự đại, tự mãn...
thì lối nhìn đại học cũng khác biệt lạ đời. Mục
đích của giáo dục nói chung, và của đại học chúng ta nói riêng không phải là
lãnh đạo, phát minh, phát triển, tiến bộ... mà là phục vụ,
phục tòng và phụ giúp(7).
Phục vụ đòi buộc phải “học theo, nghe theo, đi theo, làm theo, sống theo”. Phục tòng đòi buộc
thái độ “không nhìn, không nghe, không nói” (của ba chú khỉ Mizaru, Kikazaru và
Iwazaru ở đền thờ Tosho-gu, mà các bạn thấy bán khắp nơi)(8). Phụ giúp nói lên tính chất phụ thuộc, không quan trọng, đó
là tính chất công cụ của người giúp việc như Ô-sin, hay nô lệ. Người ta đã đổ đốn hạ cấp giá trị trí thức thành cái giá trị công
cụ, chẳng khác chi cái giá trị của người giúp việc (under-labourer, theo John Locke)(9).
Một quan niệm sai lầm nguy hiểm bắt đầu với Francis Bacon, rồi Locke, và đạt
đến cao điểm của sự khốn cùng trí thức với cái tên họ Mao (Trạch Đông), nhà
“lãnh tụ vĩ đại toàn năng hơn cả Thượng Đế” (như bọn Hồng Vệ Binh và lũ ngụy
trí thức đã từng ngợi ca). Họ Mao đã khinh miệt giới trí thức
như “cục phân” và coi bạo lực như nền tảng “siêu hình” của quyền lực.
Và Mao không chỉ là một cá biệt ngoại lệ. Ngay cả ngày nay vẫn còn
biết bao “kẻ sĩ” khom lưng tung hô sự “vĩ đại” của hai cha con (và bây giờ thì
ba ông cha cháu) nhà họ Kim, và biết bao những nhà lãnh đạo tối cao khác... Họ học theo Trung Quốc của “chúng ta” đấy mà!
Như vậy, các bạn thấy đó, “phục
vụ” không đòi buộc, mà còn chống lại sáng tạo, cải cách. Nếu giáo
dục chỉ để phục vụ, thì mạo hiểm, thám hiểm chỉ cần trong lúc chiến tranh, để
bảo vệ chế độ. Tương tự, phát minh chỉ được trọng dụng nếu nó có thể phục vụ
(quân đội, công an, bảo an, giao thông...).
Những nghiên cứu tạo ra phát minh, những cuộc thám hiểm... chỉ là những công cụ để phục vụ chế độ mà thôi. Phát minh ra các vũ khí tân
tiến, bom các loại, ngay cả loại bom hủy diệt... không phải để làm chân lý
sáng ngời, làm tăng kho tàng trí thức, hay bảo vệ giá trị con người. Những phát minh này nhắm bảo vệ một chế độ, một
nhóm người, hay một lãnh tụ nào đó, hay kinh hoàng hơn, để hủy diệt nhân loại. Bắc Triều Tiên đã “chế tạo” được
bom nguyên tử nhưng với cái giá cực đắt: hằng triệu đồng loại chết đói, hay còn
đương rã họng chờ chết. Chúng ta cố tình quên đi rằng, bản chất của sáng tạo,
phát minh, mạo hiểm, khám phá và cải cách, vân vân, nằm trong tự do, nhờ vào tự
lập và nói lên tính tự chủ của con người.
Đúng thế! Lịch sử
đã làm chứng cho sự thật bi thảm này. Đã có một thời nước Nga sản sinh ra nhiều bác học,
vĩ nhân, những nhà lãnh đạo trong nhiều lãnh vực. Nhưng nhiều chục năm liên tục ở TK XX, trí
thức đã bị đánh đồng với người phục vụ chế độ. Những ai sống chân thật với bản chất trí thức của mình đã bị
vùi dập.
ĐH Lomonosov, một biểu trưng cho sáng tạo, đã bị ma thuật quyền bính biến thành
đồ trang trí cho nhà nước.
Ở Trung Quốc Đại lục thời Mao Trạch Đông, số phận giới trí thức còn bi đát hơn
nữa. Theo hay
chống Mao, họ đều bị cái ông “Tần Thủy Hoàng đỏ” này coi không hơn cục phân. ĐH Bắc Kinh không còn là bộ óc của Trung Quốc. Nó biến thái thành một trung tâm huấn
luyện những đầu óc rượu thịt chức quyền. Đại Học Nhân Dân thành xưởng tuyên
truyền và ĐH Thanh Hoa đào tạo những kỹ sư không đáng được gọi là thợ tốt. Các giáo sư, chuyên gia
hàng đầu của đất nước bị bắt đi chăn bò, nuôi heo, canh tác, vân vân. Các nhà nghệ sĩ thành danh bị lôi cổ đi cầy bừa thay
thế trâu bò.
“Đại Cách Mạng Văn Hóa” (1967-1977) không chỉ phá sản văn hóa đạo đức, mà còn
tái hiện thực cơn ác mộng Tần Thủy Hoàng một cách vô văn hóa nhất trong lịch sử
nhân loại. Và mãi đến
gần đây, người Trung Quốc mới nhận ra được cái thảm kịch này, khi mà thấy mình
tụt hậu sau thế giới “tư bản giãy chết” cả mấy chục năm.
Ngay ở Đài Loan chúng ta, dưới
thời Tổng thống Tưởng Giới Thạch, cho dù được đối đãi khá hơn đồng nghiệp bên
Đại lục, giới trí thức vẫn bị coi là giới phục vụ. Thầy cô giáo đều được xếp chung với
công chức, quân đội, cảnh sát, tức là những người phục vụ.
Và chúng ta bây giờ phần nào hiểu được sự trì trệ của Trung Quốc cho đến gần
đây, và cả của Đài Loan vài chục năm trước.
Khi nào mà giáo dục còn là công cụ cho nhà nước, hay cho đảng phái, hay cả tổ
chức tôn giáo, thì lúc đó khó có thể có sáng tạo, phát minh. Thì lúc đó thám hiểm chỉ là những cuộc
mạo hiểm “đần độn” mà thôi.
Như vậy, các bạn sinh viên đã nhận ra phần nào cái góc của tảng
băng ngầm: phục vụ không thể tạo ra cái mới, không thể thay đổi thế giới. Vậy thì, đã đến lúc
chúng ta bắt buộc phải thay đổi lối nhìn về sứ mệnh đại học của chúng ta. Hãy
coi sứ mệnh như là sử mệnh.
Thay vì coi phục vụ như sứ mệnh, thì chúng ta phải tự tạo ra định mệnh của
mình.
Hãy lấy sáng tạo làm sử mệnh.
4. Khi
Sứ Mệnh Biến Thành Sử Mệnh
ĐH Harvard lấy việc truy tầm và
bảo vệ chân lý làm sứ mệnh, và họ đã làm lên lịch sử. ĐH Berlin lấy việc tìm kiếm và
bảo vệ tri thức; và dùng tri thức để xây dựng đất nước làm sứ mệnh. Nó cũng đã
tạo ra lịch sử. Tương tự, sứ mệnh của một Sorbonne, của một Oxford, của một
Cambridge, của một Princeton, hay của một Yale hay của một Stanford cũng đã
đóng góp vào lịch sử nhân loại không ít. Chỉ cần vào mạng Wikipedia thì chúng ta
cũng đã nhận ra được ảnh hưởng của họ trên nhân loại rất nhiều. Những đại học này đồng nhất sứ mệnh với sử mệnh.
Tạo ra lịch sử, đó chính là sứ mệnh.
Vậy thì, câu hỏi đặt ra, tại sao
chúng ta cũng có sứ mệnh, nhưng không thể tạo được lịch sử? Có phải là sứ mệnh của chúng ta bị hạn chế vào vai
trò công cụ? Có phải sứ mệnh của chúng ta bị chủ nghĩa
“thôn xóm” (thị xã, provincialism) hay “bộ lạc” (tribalism) ràng buộc? “Thôn xóm” nên được hiểu theo nghĩa rộng của chủng tộc, tôn
giáo, giai cấp, triều đại, đảng phái, gia tộc, chế độ, cơ chế. Vâng, đại học
của chúng ta đã từng “vang bóng một thời” làm nô lệ cho các chủ thuyết trên. Và vì danh vì lợi chúng ta quên khuấy đi sử mệnh của mình.
Chúng ta đã không làm nên lịch sử.
Ngược lại, chúng ta là đồng phạm làm lịch sử trì trệ, méo mó, độc điệu, đen
đủi...
Thế nên, để tìm lại sứ mệnh, chúng ta phải tìm ra sử mệnh của
mình. Cái sứ mệnh lịch sử của đại học phải là xây dựng tri thức
mới, phải là cải tổ thế giới, phải là làm thế giới tốt đẹp hơn, phải là khám
phá những gì mới lạ, phải là đi tìm một tương lai tốt đẹp hơn cho con người... Và để được như vậy,
chúng ta cần đào tạo nên những người dám mạo hiểm, biết khám phá, có năng lực
phát minh, lấy sáng tạo làm lẽ sống, và nhất là có tinh thần cải cách.
Tôi xin được giải thích ngắn gọn như sau:
Mạo Hiểm và Thám Hiểm
(Adventure)
Không biết các đại học của chúng
ta đã đào tạo ra được ai dám mạo hiểm vào những nơi chưa ai biết đến chưa? Làm sao mà chúng ta có kiến thức mới nếu không có những
nhà mạo hiểm như Christopher Columbus (1451-1506), người khám phá ra Tân Thế
Giới? Làm
sao có được thuyết tiến hóa, nếu không có những người như Charles Darwin (1809-1882),
mạo hiểm mò mẫm những nơi khỉ ho cò gáy, nơi những sắc dân xa lạ, đầy nguy hiểm
rình rập?
Oxford từng đào tạo ra những nhà khảo cổ đi tới tận cùng các ngõ ngách địa cầu.
Và
Harvard ngày nay cũng thế.
Chúng ta khó có thể có một nền
khoa học văn minh như ngày nay nếu thiếu những nhà thám hiểm này.
Từ lên cung trăng cho xuống tới tận đáy đại dương, từ bay cao cho đến lặn sâu,
họ đã thắng vuợt sự hãi sợ... và đó chính là tâm điểm của một nền giáo dục mà
Aristotle đã từng ca ngợi (trong Nicomachean Ethics).
Khám Phá (Discovery)
Gắn liền với mạo hiểm là khám
phá. Các bạn chỉ cần mở đài truyền hình
Discovery bạn sẽ thấy một cách hiển nhiên, đó là tính mạo hiểm và khám phá có
liên hệ mật thiết với nhau. Mạo
hiểm mà không có mục đích, mà thiếu phương pháp, mà không biết ghi chú, phân
tích, tổng hợp chỉ là những cuộc mạo hiểm thông thường thỏa mãn nhất thời. Khám phá mới đích thực là một mạo hiểm khoa học. Mạo hiểm
phải là thám hiểm.
Khám phá có thể do mạo hiểm,
nhưng khám phá nói chung là kết quả của một quá trình tìm tòi không biết mệt. Những nhà khoa học lớn là những
người tìm tòi, suy tư và tổng hợp không biết mệt. Isaac Newton đã khám phá ra hấp
lực của trái đất (1687), để rồi phát minh ra luật hấp lực do động lực tương
quan với tốc độ sau cả bao nhiêu thời gian quan sát, suy tư, thử nghiệm. Khám phá đòi mạo hiểm, và chấp nhận gian nan thử thách.
Chẳng có mấy ai có thể khám phá ra điều gì đáng giá nếu cả ngày làm bạn với TV,
suốt đêm ôm dàn Karaoke, và miệt mài “nghiên cứu” trong những quán cà phê thâu
đêm suốt sáng. Dĩ nhiên, không thể có khám phá mới nếu chúng ta chỉ biết mò mẫm
trên mạng sao chép, hay chạy chọt quan hệ. Đi tắt
đón đường, thói xấu “dân tộc", có thể tạo cơ hội làm quan, hay giúp ta
“nổi tiếng” nhất thời, nhưng chẳng có lợi gì cho tiến bộ. Đại học chúng ta đã
từng có rất nhiều giáo sư “nổi danh” vì quan hệ rất tốt. Họ chạy chọt được
những ghế bộ trưởng, thậm chí làm tới thủ tướng. Chúng ta cũng có rất nhiều
“người nổi tiếng” với những “shows” trên TV, báo chí. Không biết đáng vui hay
đáng buồn! Tôi nghĩ, đúng phải là đáng xấu hổ. Nhân tài được mời ra giúp nước,
đúng. Nhưng dựa vào quan hệ chạy chọt luồn cúi làm quan thì đáng phỉ nhổ(10).
Phát Minh (Invention)
Phát minh là tạo ra, hay sửa đổi,
hay hoàn mỹ công cụ giúp cuộc sống tiện lợi, dễ chịu hơn.
Thomas Edison (1847-1931) với 1093 sáng chế đã khiến cho cuộc sống con người dễ
chịu, tiện lợi hơn rất nhiều. Phát minh không nhất thiết
đồng nghĩa với sáng tạo. Nhưng
phát minh đòi hỏi một thái độ biết phê phán và tinh thần khoa học. Biết nhìn ra cái sai, biết tìm ra những điều gì chưa
hoàn hảo trong bất cứ công cụ nào, hay cách tổ chức nào, hay lối suy tư nào... và tìm cách thay
đổi, khắc phục với một kỹ thuật mới, một chất liệu khác, một phương pháp
khác...
đó chính là phát minh. Một
phát minh đáng giá bắt buộc phải được thí nghiệm hay thử nghiệm. Sự
cải tiến phương pháp trị liệu ung thư và bệnh nan y AIDS của David Hà Đại Nhất
(David Ho, 1952) là một ví dụ. Hay sự phát minh
sông đào là một sáng kiến, phát minh vĩ đại trong việc trị thủy của Vũ Vương
(c. 2200-2100 BC), người đã tạo ra lịch sử.
Sáng Tạo (Creative Work)
Nhìn vào bề dày của một đất nước,
chúng ta nghĩ ngay đến những bộ mặt làm nên lịch sử. Chúng ta
có thể quên vua chúa, nhưng không thể quên họ. Họ là những
nhà thám hiểm, những nhà khám phá, những nhà phát minh, những nhà cải cách, và
đặc biệt là những nhà sáng tạo. Gia tài của nước Đức là Immanuel
Kant, là Wolfgang Goethe, là Ludwig van Beethoven, là Albert Einstein, là
Martin Luther...
những người sáng tạo. Lịch sử của Mỹ
không chỉ được hình thành với những người như George Washington, Thomas
Jefferson, mà còn với Abraham Lincoln, Martin Luther King, hàng trăm nhà bác
học vĩ đại, những nhà phát minh như Thomas Edison, những triết gia như John
Dewey và những nhà sáng tạo tiên phong trong mọi ngành. Một Bill Gates, một Steve Job, và
những cái tên đình đám ở thời đại chúng ta mà ai cũng biết, nói lên vai trò
quan trọng của sáng tạo: sáng tạo khoa học, sáng tạo nghệ thuật, sáng tạo tư
duy, sáng tạo kỹ thuật, sáng tạo ngôn ngữ, vân vân.
Sáng tạo là đi trước, là dẫn đầu,
là khám phá, là độc đáo, là mạo hiểm. Sáng
tạo làm tiền đề cho cải cách, cho cách mạng, và tạo ra hy vọng. Nói chung, một đất nước thiếu sáng tạo là
những đất nước chạy theo. Một đại học thiếu sáng tạo là một trường nghề nối dài, một
trung tâm huấn luyện những con người không cần suy tư, chỉ cần nghe mệnh lệnh
và làm việc như những người máy. Một đại học thiếu sáng tạo cũng chính là một đại
học thiếu cá tính, thiếu “nhân cách.”
Cải Cách (Reform)
Nhưng điều kiện quan trọng và
động lực tất yếu nhất giúp tiến bộ, đó chính là cải cách. Nhà cải cách là
những người thừa kế sáng tạo, và phát minh, cũng như là một người mạo hiểm cao
độ. Với bộ óc sáng tạo, với cách làm
việc của nhà phát minh, họ nhận ra những khuyết điểm của khoa học hiện nay, của
xã hội hiện đại, của cơ cấu, pháp luật hiện hành, của nền kinh tế sai hướng,
của một hệ thống chính trị sa lầy. Quan trọng hơn, họ thấy được cái sai của chính
quan niệm về vai trò cũng như năng lực của con người. Họ
nhận ra được cái sai, có thể là do họ dựa vào những khám phá mới, vào những tư
tưởng tiên tiến, hay từ chính bài học lịch sử. Điều quan trọng là họ nhìn ra
những góc tối mà chúng ta không nhìn thấy, hay không muốn nhìn thấy.
Họ là những nhà phê phán gay gắt nhất.
Nói như Karl Marx (1918-1883), phê phán phải là tiền đề cho cải cách...(11).
Điều quan trọng hơn nữa, nhà cải
cách biết đưa ra những phương thế mới, và họ mạo hiểm dẫn đường, mặc kệ những
khó khăn nguy hiểm, để hoàn tất sứ mệnh này. Những nhà sáng lập các tôn giáo là những nhà cải cách vĩ đại. Một Đức Giê-su, một Đức Phật, một Đức
Mohammed, hay Đức Khổng... đã tạo nên những lịch sử ngàn
năm, thậm chí vạn năm. Lịch sử nhân loại gắn liền với tên
các ngài. Dĩ nhiên, những “siêu” đại vĩ
nhân trên không cần đại học, nhưng một Martin Luther, một Karl Marx, một Martin
Luther King, hay ngay cả Abraham Lincoln đều là những người từng tốt nghiệp đại
học... Họ mới chính là những người xứng
danh khiến đại học biến thành đẳng cấp.
5. Đường Ta Ta Đi
Đã từng có một thời chúng ta “tự hào” cho mình là “Harvard tại
Trung Quốc”, hay “Harvard tại Đài Loan”. Phải nói, đây
là một “tự hào” đáng xấu hổ. Nó phát xuất từ cái căn tự ti bệnh hoạn sau cú
giáng định mệnh của Tây phương lên đầu chúng ta vào cuối thế kỷ 19. Họ ép buộc Trung Quốc phải chấp nhận sự thua kém
quá xa của mình. Họ khiến cái cao ngạo tự phong mình là “cái rốn của vũ
trụ” nổ be bét ra như trái bong bóng bị kim châm. Và từ đó, chúng ta bị cái mặc cảm “tự ti tự kiêu” giam hãm.
Hơn 90 năm trước, đã có một thời cái khẩu hiệu “Vào vào Bắc Đại, đi đi Ca Đại”
đã cắm ngập sâu vào lòng giới hàn lâm Tầu, nói lên cái tâm thức “tự ti tự kiêu”
này.
Tới ngày nay, bản chất nó vẫn thế. Các bạn chỉ cần thay đổi cái khẩu hiệu:
“Vào, vào Đài Đại, đi đi Ha Đại”(12), mà thôi. Khẩu hiệu rỗng tuyếch này vẫn
nói lên cái căn bệnh “tự ti tự kiêu” bất trị này. Chúng ta phải biết. Dẫu là
một “Harvard Đài Loan” thì chúng ta vẫn chỉ là đàn em, hay “cậu bé” chưa trưởng
thành, suốt đời cứ phải chạy theo đuôi học hỏi Harvard thôi. Suốt đời ta vẫn là
cậu học trò ngoan ngoãn, bám gót xách cặp cho ông thầy Harvard. Hãnh diện hay
xấu hổ? Thật đáng xấu hổ!
Đã đến thời đoạn mà ta phải tự đứng lên bằng chính đôi chân của
mình. Nói theo Max Weber, nếu chúng ta đã biết cách leo lên vai những người
khổng lồ để nhìn xa hơn, biết rộng hơn chính họ, thì quan trọng hơn, đã đến lúc
chúng ta phải biết tự “tạo” biến mình thành người khổng lồ. Cho dù ai đứng trên
vai, trên đầu, hay “cưỡi trên lưng, trên cổ” chúng ta, thì họ vẫn phải dựa vào
chúng ta. Lọt vào trong sổ 100 đại học không dễ gì, nhưng để trở thành một đại
học lãnh đạo theo đúng nghĩa dẫn đầu, để người khác dựa vào, và đi theo, hay
leo lên vai mình, thì mới thực sự khó. Leo lên vai người khổng lồ không dễ,
nhưng làm người khổng lồ mới thật sự là một thách đố cho ĐHQGĐL của chúng ta.
Con đường duy nhất để trở thành lãnh đạo, như tôi đã trình bày với
quý bạn, đó chính là nỗ lực không ngừng để khám phá, phát minh ra cái mới. Đó
chính là tinh thần mạo hiểm, óc sáng tạo, và dám cải cách. ĐHQGĐL để xứng đáng
là đại học lãnh đạo, phải là cái nôi sản sinh ra những nhà mạo hiểm, những nhà
khám phá, những nhà phát minh, những nhà sáng tạo và nhất là những nhà cải
cách. ĐH Oxford đã đào tạo những người mạo hiểm, những nhà lãnh đạo như Winston
Churchill, những người thủ lãnh của nhiều quốc gia trên thế giới. Sorbonne cũng
đã có một thời danh vang bốn bể, là cái nôi của đầu óc thế giới. ĐH Berlin đã
tạo ra những con người như Marx, đã biết trọng dụng những bộ óc vượt thời gian
như Hegel, Einstein; y hệt ĐH Cambridge là cái nôi cho những nhà lãnh đạo khoa
học như Newton, Paul Dirac... Cambridge cũng “đẻ” ra những nhà lãnh đạo
Singapore và biết bao nước khác. Những đại học này chính là những đại học đẳng
cấp theo đúng nghĩa là đi trước, biết trước, làm trước... để mọi người theo
sau. Họ chính là những người khổng lồ mà mọi người khác phải dựa vào, hay trèo
lên vai họ mới có thể biết rộng hơn, nhìn xa hơn và làm hiệu quả hơn.
6. Tạm Kết
Quý bạn sinh viên đồng học thân mến, tôi xin kết thúc bài nói
chuyện 30 phút này với lời cám ơn gửi tới các bạn. Cám ơn đã lắng nghe một ông
thầy giáo già (hay đang bước vào tuổi già). Không thấy có ai ngủ gật, không
nghe thấy tiếng rì rầm trò chuyện... Sự kiện này nói lên sự khác biệt giữa
chúng ta và ĐH Bắc Kinh hay ĐH Thanh Hoa tại Bắc Kinh. Tôi từng tham dự lễ mừng
100 năm thành lập ĐH Bắc Kinh, rồi lễ thành lập Viện Nghiên Cứu Kinh Tế Chính
Trị tại ĐH Thanh Hoa. Vào những dịp này rất nhiều nhân vật quan trọng Trung
Quốc “hạ chân” đến đại học (chúc mừng thì ít, huấn đạo thì nhiều). Họ cúi đầu
đọc bài tham luận (dài lê thê). Thế nên tôi chẳng ngạc nhiên khi thấy sinh
viên, giáo sư, học giả chẳng mấy ai thèm để ý. Ngay cả vị Chủ tịch kiêm Tổng Bí
thư Hồ Cẩm Đào (tại ĐH Bắc Kinh), hay nguyên Thủ tướng Chu Dung Cơ (tại ĐH
Thanh Hoa) cũng chẳng thấy mấy ai thèm nghe. Thính giả ồn ào hơn buổi chợ sớm.
Mà diễn giả thì giọng rống lên như đứng trước ba quân. Chẳng có gì giống môi
trường đại học cả.
Tôi cũng xin cám ơn Lý Hiệu trưởng một lần nữa. Ông là một người
họa hiếm đã không theo con đường lấy quyền uy để lãnh đạo đại học. Trong phần
mở đầu, tôi có nói đùa là bị ông “phạt” bắt phải công tác sớm. Và tôi có nhắc
tới là có thể sẽ làm phật lòng ông và Ban Giám hiệu. Không, không có chuyện ấy.
Lý Hiệu trưởng và Ban Giám hiệu là những nhà khoa học cải cách. Thay vì mời
Tổng thống, Thủ tướng hay một nhà tỉ phú hay một nhân vật thời danh nào đó đến
phát biểu (như thường thấy trong quá khứ), Lý Hiệu trưởng đã mời một kẻ vô danh
tiểu tốt như tôi. Thay vì yêu cầu tôi tới gặp ông ở Toà Hiệu trưởng, ông đã hạ
mình qua tận phòng làm việc của tôi nhiều lần. Và thay vì đòi buộc phải có bài
thuyết trình in ra trước, ông và Ban Giám hiệu đã chấp nhận việc tôi đứng trước
các bạn với một tờ giấy, nguyệch ngoạc với vài ý tưởng. Đây là một dấu chỉ của
một cuộc cải cách âm thầm, thay đổi cái thế giới trật tự cố định của “quan
trước dân sau, thầy trên trò dưới”, từng được bảo vệ một cách cực đoan cả bao
ngàn năm nay.
Từ thái độ của các Bạn, từ quyết tâm cải cách của Lý Hiệu trưởng
và Ban Giám hiệu, tôi phần nào tin là chúng ta sẽ đi đúng con đường để trở
thành một đại học lãnh đạo theo đúng nghĩa. Hãy đi trước trong nhiều lãnh vực.
Hãy làm hay hơn những gì mà người ta đã từng làm. Hãy biết tìm ra sai lầm, và
sửa đổi. Hãy mạo hiểm, có tinh thần sáng tạo... đó chính là châm ngôn của Đại
học của chúng ta. Đó mới là sứ mệnh; và đó cũng là sử mệnh của ĐHQGĐL./.
---------------------
(1) Theo bảng xếp hạng của THES năm 2012, ĐHQGĐL xếp hạng 61-70
trên toàn thế giới. Năm 2007, nằm ở nhóm 91-100, năm 2011, nằm trong nhóm
81-90. Theo QS, ĐHQGĐL được đánh giá cao hơn. Riêng Trường Triết Học được xếp
hạng 43 trên thế giới. Theo bảng đánh giá của Đại Học Giao Thông, Thượng Hài
(ARWU), ĐHQGĐL xếp hàng đầu trong các vùng nói tiếng Trung (Hoa), trên ĐH
Hongkong, ĐH Bắc Kinh, ĐH Thanh Hoa (Bắc Kinh).
(2) Ngay cả giới học thuật của những nước lân bang như Phi Luật
Tân, Việt Nam, Thái Lan, Lào, Cam Bốt, Mã Lai Á, Nam Dương, vân vân, không có
mấy ai biết gì về ĐHQGĐL, đừng nói đến các nước xa hơn ở Âu châu, Nam Mỹ hay
Phi Châu.
(3) Khi được thông báo “tin vui” này, tôi sững sờ tưởng mình nhầm.
Và bỗng cảm thấy hụt hẫng sau vài phút kiêu hãnh. Nhiều đại học cùng đẳng cấp
(như Heidelberg, Frankfurt...), hoặc xếp dưới (như ĐH Vienna của Áo, họ có
những nhà tư tưởng lừng danh ảnh hưởng sâu rộng trên thế giới như Weber, Gadamer,
Popper, Arendt, Nhóm Viên (Wienerkreis), Freud... Vậy thì chúng ta có ai không?
(4) Câu này tôi dựa theo thi hào Alghieri Dante. Ông viết trong Thần
Khúc ( La comedia divina): “Seguir il tuo corso e lascia dir la
gente.” (Đường anh anh đi, kệ cha thiên hạ nói). Karl Marx từng trích câu này
trong lời tựa đề lần xuất bản thứ hai của tập sách Tư Bản Luận (1867).
(5) Plato, “The Myth of Cave.” Trong The Republic (514a).
(6) Marius B. Jansen, The Makin of Modern Japan (Cambridge:
Harvard University Press, 2000). Những nhà tân học như Ito Hirobumi, Matsukata
Masayoshi, Kido Takayishi, Itagaki Taisuke, Mori Arinori... đã làm thay đổi
nước Nhật.
(7) Paolo Freire, một nhà giáo dục cải cách Ba Tây đã từng nêu lên
vấn nạn này trong tác phẩm quan trọng Pedagogy of the Oppressed (1968.
Eng. trans. 1970) (New York: Continưm, 2007). Tôi cũng đã mạnh mẽ phê bình lối
giáo dục sai lệch này của Trung Quốc trong tập sách The Poverty of
Ideological Education (Taipei: The Ministry of Education, 1991 / Revised:
Washington DC: The Council for Research in Values and Philosophy, 2000).
(8) Thực ra ba chú khỉ được người Nhật coi như là một biểu tượng
của tu thân: Chú khỉ Mizaru che mắt để không thấy điều ác, chú khỉ Kikazaru bịt
tai để khỏi nghe thấy những lời thối tha, và chú khỉ Iwazaru bịt miệng để không
nói điều thô tục. Biểu tượng này được lấy từ Luận Ngữ : “Phi lễ vật thị,
phi lễ vật thính, phi lễ vật ngôn, phi lễ vật động” ww.wikipe
dia.org/wiki/Three_wise_monkeys
(9) John Locke, Essays on Human Understanding (1689/90).
Epistle to the Readers
(10) Theo thống kê, thì 100% tổng thống dân cử , 80% bộ trưởng,
85% đại pháp quan, 90% viện sỹ... của Đài Loan đều là cựu học sinh của
ĐHQGĐL.Không ít dựa vào những mối quan hệ, đảng phái.
(11) Karl Marx, Critique of Hegel's Philosophy of Right
(1844): “For Germany the critique of religion has been essentially completed,
and the critique of religion is the essential precondition for all criticism.”
(12) Bắc Đại, tên tắt của ĐH Bắc Kinh, “Ca Đại,” tên tắt của ĐH
Columbia (tại New York); Ha (Đại, tên tắt của ĐH Harvard (tại Boston), và Đài
Đại, tên tắt của ĐHQG Đài Loan (tại Đài Bắc).