Trần Văn Chánh
Theo Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển
Chủ nghĩa giáo điều
trong hoạt động nghiên cứu các khoa học nhân văn nói chung và sử học nói riêng
trong mấy chục năm nay đã từng chi phối dẫn đến những nhận thức cực đoan, sai
lầm trong cách trình bày, đánh giá một số nhân vật và sự kiện lịch sử, cũng như
đã có những sự hiểu sai về mục đích đích thực của bộ môn sử học.
Mặc dù những lý do nêu
trên về các điều kiện nghiệt ngã để có được những bộ sử trung thực, về mặt lý
thuyết chúng ta vẫn còn có thể nêu thêm những thực tế khác để xem xét vấn đề
một cách tường tận thấu đáo thêm. Có một điều kiện lý tưởng vẫn còn nêu ra
được, đó là nhà cầm quyền cũng phải trung thực nếu thật sự vì dân, nhận thức sự
trung thực trong sử học như một điều quan trọng cần thiết có lợi ích lâu dài
cho cả dân tộc, theo nghĩa lịch sử là tấm gương soi chung và là những bài học
kinh nghiệm cần để rút tỉa cho công cuộc xây dựng tương lai đối với tất cả mọi
thành viên công dân, và đối với đất nước, mà nếu trung thực thì tốt hơn là làm
ngược lại. Để có sự trung thực, lẽ tất nhiên phải coi chân lý khoa học và lợi
ích của nhân dân là luật pháp tối thượng, có tầm nhìn thần thông quảng đại,
rộng mở, do đó sẽ không nhìn lịch sử hay nhân vật lịch sử bằng một tâm địa nhỏ
nhen tầm thường.
Một thực tế có thể thấy
nếu các nhà sử học phương Tây (chủ yếu Pháp, Mỹ) cận hiện đại mà viết sử với
một tâm hồn nhỏ nhen, không tôn trọng sự thật lịch sử hoặc chỉ vì những cái
danh hão hay quyền lợi dân tộc hẹp hòi, chắc chắn họ sẽ bôi nhọ một số nhân vật
lịch sử Việt Nam vốn từng là nguyên nhân gây ra sự chiến bại của quốc gia họ
trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ của nhân dân Việt Nam. Trái
lại, họ thường đã mô tả một số nhân vật lịch sử Việt Nam như Nguyễn Thái Học, Võ Nguyên Giáp... với một lòng kính ái đặc biệt, đưa tên vào từ
điển, một phần cũng nhờ vậy mà nước Việt Nam đến nay được rất nhiều quốc gia
khác trên thế giới biết đến một cách trân trọng.
Trái lại với những thí
dụ vừa kể trên đây là trường hợp một số sử gia Trung Quốc từ lâu và nhất là gần
đây đã cố gắng bóp méo sự thật lịch sử, “tự viên kỳ thuyết” (vo tròn các sự
kiện cho khớp với lý luận chủ quan của mình) để chứng minh các quần đảo Hoàng
Sa, Trường Sa là thuộc chủ quyền Trung Quốc, tự đặt ra đường chữ U chín đoạn để
chiếm hữu hầu hết diện tích biển Đông. Làm như vậy vì những lợi ích nhỏ thiển
cận, dẫn đến hậu quả xấu lâu dài là làm cho nhân dân Trung Quốc tập nhiễm tư
tưởng thực dụng thô thiển cùng thói quen nói láo, và như thế đã góp phần tiêu
cực phá hoại cả nền văn hóa Trung Quốc vốn dĩ có rất nhiều nhân tố truyền thống
tốt đẹp mà tổ tiên của họ với những Khổng Tử, Mạnh Tử, Lão Tử, Tuân Tử... đã
dày công xây đắp trong suốt mấy ngàn năm lịch sử. Đây là một trường hợp lợi bất
cập hại khá rõ ràng có thể đem ra dẫn chứng cho lối làm việc bằng tâm địa nhỏ
nhen không tôn trọng chân lý khoa học và lịch sử.
Đến đây có thể thấy rõ,
trong khá nhiều trường hợp, sự chi phối của những quyền lợi chính trị nhất thời
mang tính phe nhóm đôi lúc có hại khi đặt toàn bộ vấn đề lợi ích ở mức độ dân
tộc hay nhân loại trên một bình diện rộng lớn hơn, và có thể tạm rút ra một hệ
luận: công việc nghiên cứu lịch sử, để có được tính trung thực cần thiết, đòi
hỏi sự tôn trọng tính độc lập tự do của các sử gia, dù sử gia đó là tư nhân
(như Trần Trọng Kim chẳng hạn) hay là người đang hoạt động trong những cơ quan
chuyên trách về sử học, giáo dục của nhà nước cũng vậy.
Ngoài khía cạnh quan điểm
ra, nhiều sự kiện thuộc về sự thật lịch sử thể hiện trong các sách giáo khoa
cũng cần được xem xét lại để điều chỉnh. Phong cách viết sử theo lối tự hào dân
tộc hẹp hòi quá đáng hay theo kiểu “tốt khoe, xấu che”, “ta thắng, địch thua”
cũng cần phải loại bỏ. Trong một bài viết (tạp chí Tia sáng số 9, ra ngày
5/5/2008), GS-NGND Nguyễn Văn Chiển (đã quá cố), khi nói về tính dũng cảm,
khiêm tốn và trung thực của người trí thức, đã nhắc lại câu chuyện của nhà sử
học Trần Huy Liệu và nhân vật Lê Văn Tám. GS Chiển, trong ý tưởng đòi hỏi tính
can đảm trung thực phải có của người trí thức, đã nhắc khen ông Nguyễn Mạnh
Tường và ông Trần Đức Thảo, hai nhân vật trí thức Việt Nam lỗi lạc có thời gian
vì trung thực đóng góp ý kiến xây dựng cho việc chung nhưng không hợp quan điểm
“chính thống” mà bị “rút phép thông công”, phải chịu oan chịu khổ trong hầu như
suốt quãng đời còn lại (riêng Trần Đức Thảo sau khi chết, vài năm trước đã được
minh oan công khai).
Như vậy, để nối tiếp ý
kiến GS-NGND Nguyễn Văn Chiển, thiết tưởng đến lúc này, sau khoảng nửa thế kỷ,
một vài nhân vật khác trong nhóm Nhân Văn Giai Phẩm cũng như toàn bộ vấn đề
Nhân Văn Giai Phẩm cũng nên được giới nghiên cứu văn-sử học đưa vào bàn hội
nghị đánh giá lại một cách khách quan, công khai để rút ra thêm nhiều bài học
quý báu khác. Làm được như vậy, giới văn học và sử học Việt Nam ghi thêm được
một thành tích chói lọi mới, đẩy mạnh công cuộc đổi mới toàn diện đất nước và
chắc chắn sẽ được mọi người mọi giới cả trong lẫn ngoài nước hoan nghênh nhiệt
liệt vì đã góp phần làm thay đổi hẳn bầu không khí hoạt động văn hóa-tư tưởng
theo chiều hướng tích cực nhất.
Một số sự kiện lịch sử
hay cách đánh giá nhân vật lịch sử, nếu được điều chỉnh đúng, sẽ dẫn đến một số
hệ quả thực tế tích cực tất nhiên trong đời sống người dân cũng như trong một
phần của công tác giáo dục, như trường hợp tên ông Kim Ngọc đã được chọn để đặt
tên đường và tên vài trường học ở Vĩnh Phú khoảng sáu năm trước, sau khi quan
điểm về khoán sản phẩm trong nông nghiệp của ông Kim Ngọc có lúc bị kết án sai
lầm đã được đánh giá lại tỏ rõ. Tương tự như thế, tượng Phan Thanh Giản và
trường học mang tên ông đã được phục hồi tại Bến Tre, tượng Lê Văn Duyệt đã
được an vị tại Lăng Ông-Bà Chiểu... Chúng ta ngày nay có thể cần những điều đó
vì lý do chính trị này khác nhưng các vị được tôn vinh dường như cũng không mấy
cần. Với cái đà này, nếu nghĩ một cách trung thực, rồi đây người ta cũng phải
nghĩ đến việc đổi tên các công viên, rạp hát, trường học mang tên Lê Văn Tám
thành công viên Lê Văn Duyệt, công viên Gia Long, rạp hát Đào Tấn, trường
Trương Vĩnh Ký, trường Phạm Quỳnh... chẳng hạn.
Về mặt khách quan, cũng
là sự thật lịch sử và chân lý cuộc đời, kẻ thù không phải lúc nào cũng xấu, còn
“phe ta” thì luôn tuyệt vời. Hơn nữa cũng không có ai là kẻ thù thật sự hay
vĩnh viễn, kể cả trong cùng một đất nước, một nòi giống hay giữa dân tộc này
với dân tộc khác. Trong lịch sử Việt Nam, đã có trường hợp đánh tan xong giặc
Minh còn cấp cho quân địch 500 chiếc thuyền với lương thực đầy đủ để chạy về
cho tiện, một hành vi rất là “mã thượng” của người xưa.
Có một phong cách viết
sử không cần bôi bác kẻ thù, mà cứ việc xảy ra thế nào kể lại thế ấy theo đúng
những tài liệu chữ viết hoặc truyền khẩu đã thu thập được. Có thể kể trường hợp
sách Bản triều bạn nghịch liệt truyện của học giả Giá Sơn Kiều Oánh Mậu,
soạn năm Thành Thái thứ 13 (1901). Đây là cuốn sách của một ông quan triều
Nguyễn viết về những kẻ phản nghịch chống lại “bản triều”, nhưng cách thuật
chuyện và thể hiện các nhân vật phản diện lại khách quan sinh động, còn cho
thấy được những nét ưu điểm, khả ái và khí phách cá nhân của những kẻ bị tác
giả xếp vào thành phần phản loạn, như Lê Văn Khôi, Cao Bá Quát và rất nhiều
người khác...
Cuộc đời thực, tức cũng
là lịch sử, luôn phải có kẻ vầy người khác. Có kẻ xấu kẻ phản dân hại nước thì
tính cách của người tốt người yêu nước mới bộc lộ rõ và được tôn vinh. Anh hùng
tạo thời thế nhưng thời thế cũng có thể làm nên anh hùng. Nếu không có những
cuộc loạn lạc thời cuối Xuân thu đầu Chiến quốc thì cũng không có những học
thuyết của Nho gia, Đạo gia, Pháp gia... nở rộ, để lại những tinh hoa di sản tư
tưởng của phương Đông ngày hôm nay. Thời thế tức là cái hôm nay chúng ta gọi
“bối cảnh lịch sử” mà khi nghiên cứu bất kỳ một biến cố, phong trào, học phái
nào, người nghiên cứu cũng không thể không xét đến nơi đến chốn..... Trong lịch sử Việt Nam từng có những hạng trí thức lưu vong chạy
theo quân giặc, như Trần Ích Tắc và Lê Tắc trong trận giao chiến với quân
Nguyên đời Trần, chỉ mong “cẩu toàn tính mệnh ư loạn thế”. Riêng Lê Tắc khi
trốn sang Tàu còn viết được bộ sử An Nam chí lược để đời, được một người
đương thời viết lời tựa khen là “không thua gì sách của Tư Mã Thiên và Ban Cố
hồi trước”, đã được cả Việt Nam và Trung Quốc in lại nhiều lần như một sử liệu
có giá trị tham khảo tốt.
Bình luận về con người
trong lịch sử vì thế không thể thiếu sự thông đạt chính trị nhân tình, và đức
công bằng, luôn biết đặt con người vào trong hoàn cảnh cá nhân cùng với những
mối tương tác nhân quả của các sự kiện chi phối bên ngoài, trên cái nền chung
những bi kịch và nỗi thống khổ của nhân sinh và trong cái trào lưu sinh hoạt
bất tuyệt của cuộc đời, từ đó có được quan điểm phóng khoáng mang chất triết lý
sâu hơn về cuộc sống để có thể tiếp cận với chân lý lịch sử một cách khách quan
toàn diện hơn, góp phần xây dựng một nền văn hóa hòa bình không mang tính sát
phạt vì các kiểu thái độ cực đoan, phiến diện, căm thù có tính nguyên thủy của
loài người chưa văn minh. Đó có lẽ cũng là thế giới quan hình thành nên thái
độ, cách nhìn cùng những ý kiến bình luận đánh giá thâm trầm sâu sắc của Tư Mã
Thiên (trong các bài “Tán”, bài “Tự”) đối với một số nhân vật và sự kiện lịch
sử tiêu biểu ở Trung Quốc cổ đại, làm cho bộ Sử ký của ông trở thành một bộ
sách sử-triết-văn chương khuôn mẫu bất hủ.
Văn hóa là cái gì còn
tồn lại bền lâu trong tâm trí, bàng bạc trong cách ứng xử hiện tại của con
người sau khi mọi sự kiện, nhân vật, chế độ chính trị... đã qua đi. Mà bao
nhiêu sự kiện, nhân vật, chế độ chính trị trong quá khứ đều đã phải tuần tự cứ
qua đi như thế trong trường kỳ lịch sử, bất chấp cả không gian và thời gian.
Nhân vật lịch sử không nhất thiết phải là danh nhân, họ đều là con người nên có
mặt tốt mặt xấu, có những lúc yếu mềm lầm lỗi nhẹ dạ, rồi ai cũng ra người
thiên cổ dù đi trong gió ngược hay xuôi, nhưng tất cả đều có vai trò riêng
trong một bối cảnh lịch sử nhất định. Việc đánh giá lịch sử cũng như các
nhân vật lịch sử nếu chính xác, sẽ có ý nghĩa quan trọng đối với lớp người đi
sau chứ không phải cho lớp người trước, hiểu như là những bài học kinh
nghiệm quý báu để rút tỉa áp dụng cho cuộc sống hiện tại và tương lai lâu dài,
vì thế phải được thực hiện một cách khách quan và thận trọng, không nên để bị
ảnh hưởng bởi bất kỳ định kiến hay loại quan điểm chính trị thực dụng nhất thời
nào.
Có thể học được những gì
từ trong những bài học đã có sẵn trong lịch sử? Trước hết, muốn học được điều
gì thì lịch sử phải là lịch sử của sự thật, của những sự kiện và biến cố có
thật đúng như chúng đã diễn ra trong quá khứ. Lịch sử được viết nên một cách
giả dối do sự thêm thắt, thêu dệt hoặc tưởng tượng, gán ghép đầy định kiến thì
không thể dùng để tham khảo học hỏi gì được, nếu không muốn nói là có hại. Bài
học lịch sử là cái có sẵn, bất di bất dịch, điều quan trọng thuộc về cách con
người biết tham khảo nó sáng suốt ra sao để hướng dẫn cho những hành động trong
hiện tại và hướng tới xây dựng tương lai. Có những kinh nghiệm thành công và
những kinh nghiệm thất bại, y như lẽ thường tình thành bại của con người (không
có gì xấu), trong cách làm, cách hành xử liên quan đến việc trị nước tổng quát
cũng như với từng công việc cụ thể đã được áp dụng trong những tình huống khác
nhau. Kinh nghiệm nào nếu biết áp dụng cũng đều tốt nhưng riêng những kinh
nghiệm thất bại thì thường quý hơn, trước hết giúp tránh được vết xe đổ của
những người đi trước (tiền xa chi giám). Chính vì lẽ đó công việc ghi lại lịch
sử càng đòi hỏi gắt gao tính trung thực, phải nêu đủ cả những chuyện xấu và
những việc thất bại, kể cả “những cuộc bại trận thê thảm của quân ta”... Trái
lại, khuynh hướng cường điệu ca tụng khía cạnh những võ công oanh liệt, lặp đi
lặp lại quá nhiều, thường ít có giá trị thực tế mà còn làm cho người ta trở nên
kiêu mạn, mất ý thức, mất cảnh giác vô cùng tai hại. Chiến tranh là hành động
bất đắc dĩ, gây nên cái cảnh “đống xương vô định đã cao bằng đầu”, hay “nhất
tướng công thành vạn cốt khô”... của biết bao thế hệ con người. Ở Úc và New
Zealand, người dân chọn ngày 25 tháng 4 hàng năm làm ngày Anzac, một lễ lớn
mang tính dân tộc, với lễ hội tưng bừng (còn hơn cả Quốc khánh Úc 26/1, New
Zealand 6/2), không phải để kỷ niệm chiến thắng mà để ghi nhớ chiến bại. Đó là
một ngày vào năm 1915, trong Thế chiến lần thứ nhất, liên quân Úc-New Zealand
đã đổ bộ vào Gallipoli của Thổ Nhĩ Kỳ với hơn 8.000 lính Úc và 2.700 lính New
Zealand bị thiệt mạng, và từ đó đến nay nhân dân cả hai nước đều coi đó như một
kinh nghiệm thất bại, tuy có bi hùng nhưng nếu tránh được càng tốt, vì dù sao
cũng là một chuyện đau thương chung cho cả hai dân tộc.
Ở Hoa Kỳ, sau cuộc nội
chiến Nam Bắc năm 1865, các sĩ quan và binh sĩ dưới quyền của tướng Lee miền
Nam thua trận đã không bị giam giữ như tù binh chiến tranh. Những binh sĩ chết
trận của cả hai phe thắng bại đều được chôn xen kẽ trong cùng một khu mộ, nơi
có tấm bia ghi rõ “Nơi đây là chỗ nằm xuống của tất cả những người vì nước Mỹ”.
Hết chiến tranh thì không còn hận thù, mà bắt tay đoàn kết nhau ngay để cùng
nhau xây dựng hướng đến tương lai, đó cũng là một trong những nguyên nhân chủ
yếu giúp cho nước Mỹ mau trở thành một cường quốc thế giới.
Đọc lại câu chuyện cũ
nước Mỹ sau khi tướng Lee thua trận, ai trong chúng ta mà không cảm động đến
rơi nước mắt: Tướng Lee đứng dậy, lần lượt bắt tay các sĩ quan trong Bộ Tham
mưu của tướng Grant (phe miền Bắc thắng trận), bắt tay tướng Grant, nghiêng
mình chào tất cả mọi người có mặt và bước ra khỏi phòng họp. Tướng Grant và ban
sĩ quan tham mưu đã đứng sẵn ở bao lơn trước căn nhà, nơi đôi bên nghị hòa. Khi
ngựa tướng Lee rảo bước đi qua, cặp mắt của hai vị tướng quân chạm nhau trong
giây phút, họ đồng ngả nón chào nhau. Trên bao lơn xung quanh tướng Grant và
suốt trong sân trước căn nhà lịch sử, sĩ quan và binh sĩ miền Bắc đều đưa tay
chào kính vị tướng bại trận quân đội liên hiệp miền Nam. Tin đồn tướng Lee đầu
hàng tràn lan mau chóng như thuốc súng. Khắp nơi binh sĩ miền Bắc reo mừng… Thế
nhưng tướng Grant nhanh chóng ra lệnh ngưng ngay tức khắc những biểu lộ nỗi vui
mừng của binh sĩ miền Bắc. “Rồi sẽ có ngày mừng chiến thắng”, tướng Grant giải
thích, “Nhưng không phải là ngày hôm nay. Quân đội miền Nam đã đầu hàng. Chúng
ta không được phép reo mừng trên chiến bại của họ. Điều quan trọng với tướng
Grant là phải làm sao để thắng trận, đồng thời cũng phải gìn giữ cho bằng được
sự toàn vẹn tình cảm giữa những người cùng trong cộng đồng dân tộc Hoa Kỳ.
Câu chuyện lịch sử vừa
kể lại trên đây đáng là một tấm gương tốt về hòa hợp dân tộc, xóa bỏ hận thù,
và những bài học lịch sử như thế mới thật sự lợi ích trong ý nghĩa giáo dục chủ
nghĩa nhân đạo và tinh thần nhân bản cho các thế hệ mai sau.
Viết sử là loại công
việc công phu tốn nhiều thời gian, ngoài tôn trọng sự thật trên cơ sở bám sát
sử liệu còn đòi hỏi phải có sự nghiền ngẫm sâu xa, nêu lên được những bài học
tham khảo cho các thế hệ hiện tại và tương lai, góp phần vun đắp nhân bản, nên
không thể có sự tùy tiện, định kiến, gán ghép bóp méo sự thật, buồn vui yêu
ghét thất thường, nay vầy mai khác, hay dựa dẫm quyền thế, xu phụ theo miệng
nhà quan. Hai vợ chồng nhà sử học lừng danh người Mỹ Will và Ariel Durant (Will
sinh năm 1885) bỏ ra đến 39 năm soạn bộ Câu chuyện của nền văn minh (bản
tiếng Anh 10 cuốn, bản tiếng Pháp 33 cuốn với trên 14.000 trang), như vậy mà
vẫn cứ nơm nớp lo sợ rằng mình chưa đủ tư liệu để tái hiện diện mục lịch sử một
cách trung thực. Khi gần cuối đời, họ đã viết thêm một quyển nhỏ cuối cùng lấy
nhan đề Bài học của lịch sử như để thay lời kết luận cho toàn bộ sách,
đúc kết lại rằng thời nào, nước nào trước kia cũng có những kẻ loạn luân, độc
ác; đâu đâu cũng có tình trạng độc tài, tham nhũng, lộng quyền, cùng những thứ
khác như dịch bệnh, chiến tranh v.v.., song song với những hành vi có tính cách
xây dựng tích cực của loài người. La Quán Trung mở đầu cuốn tiểu thuyết lịch sử
Tam quốc diễn nghĩa của mình bằng câu ngắn gọn “Thiên hạ hết loạn lại
trị, hết trị lại loạn...”, dường như đã thu tóm hết được yếu tính phổ quát của
lịch sử. Tuy nhiên con người vẫn chưa chịu bó tay phó thác cho định mệnh, nên
lịch sử cũng còn ghi lại được biết bao suy ngẫm, nỗ lực, công trình văn hóa,
vật chất của con người để nhằm phát huy những mặt tích cực, hạn chế các mặt
tiêu cực. Đã có một số nước, một số nơi nêu được những tấm gương thành công
trong việc không ngừng cải tiến những phương pháp và định chế cai trị nhằm tạo
lập sự ổn định khá hơn, ít nhất là trong phạm vi của nước họ để ổn định xã hội,
cải thiện cuộc sống người dân, hạn chế nạn độc tài, độc quyền, bằng cách áp
dụng khế ước xã hội dưới hình thức chấp hành chung bản hiến pháp cùng những
định chế dân chủ chính trị khác.
Hiểu lịch sử, theo nghĩa
tích cực nhất là để yêu thương con người hơn, tạo được mối đồng cảm, trên cơ sở
thấy được những mối dị biệt và hoàn cảnh khác nhau giữa các dân tộc, không phân
biệt chế độ chính trị, màu da, trình độ phát triển, từ đó thúc đẩy sự đoàn kết
hợp tác để cùng nhau chống chọi lại những thiên tai, bệnh tật, rủi ro đang đe
dọa con người mỗi lúc một thêm hung hãn dồn dập trong điều kiện của cuộc khủng
hoảng môi sinh toàn cầu hiện nay. Tấm lòng người viết sử vì thế cũng phải bao
la, nhân đạo, mới có thể đảm đương được sứ mệnh, và mới đủ trùm lên được những
gì mà kho lịch sử phong phú của quá khứ muốn khải thị lại cho con người.
Muốn rút tỉa được những
kinh nghiệm và bài học lịch sử như trên đã bàn để áp dụng cho cuộc sống hiện
tại và tương lai thì không thể không nói đến hiệu quả của việc học sử-dạy sử
trong các nhà trường từ tiểu học đến đại học. Đáng tiếc, tình trạng chán học
môn lịch sử của học sinh, sinh viên Việt Nam đã và đang gia tăng và ngày càng
thêm trầm trọng. Đây là một hiện tượng đã được phát giác và cảnh báo từ khá
lâu, như kết quả một cuộc điều tra của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân
văn TP Hồ Chí Minh hồi năm 1999 cho thấy, với 1.800 người được hỏi, có tới 39%
không biết Hùng Vương là ai; 49% không biết Trần Quốc Toản là ai; hoặc như
trong một báo cáo khác cho thấy 44% trên 468 sinh viên được hỏi không biết Chu
Văn An là ai (Xem Phan Thành Nhơn, “Việc phổ cập kiến thức lịch sử hiện nay”,
tạp chí Xưa và Nay, 6/1999, tr. 27).
Trước tình trạng có vẻ
bi quan như trên, đã có biết bao nhà giáo, nhà sử học và các bậc thức giả cao
minh tâm huyết tham gia bàn luận một cách tương đối rốt ráo, trên các diễn đàn
báo chí, mà nếu tổng hợp lại, người ta sẽ có dư thừa ý kiến để biết được nguyên
nhân và giải pháp khắc phục, không cần thiết phải tổ chức thêm những cuộc hội
thảo rườm rà, tốn kém như ngành giáo dục đang có ý định làm. Trong số các
nguyên nhân được nêu ra, có nguyên nhân liên quan đến vấn đề đang xét, đó là
quan điểm, phương pháp và thái độ giáo điều trong hoạt động nghiên cứu sử học
từ trước tới nay. Các nhà sử học vì thế càng bị động tâm nhiều hơn do họ thấy
tận mắt hậu quả: điểm thi môn sử thấp không ngờ trong kỳ thi đại học-cao
đẳng năm 2011 vừa qua, với kết quả hầu hết học sinh đều đạt điểm 0 hoặc gần với
điểm 0, trên cả nước! Nhưng chính họ cũng thuộc thành phần tòng phạm, chịu một
phần trách nhiệm của tình trạng bất như ý như thế, qua những cuốn sách giáo
khoa biên soạn độc quyền, không đảm bảo được kiến thức trung thực về lịch sử,
như mọi người đều đã biết.
Lý thuyết phân vân, giờ
nói ra được một phần sự thật, coi như cũng đợi điều kiện chín muồi của lịch sử
mới “tát nước theo mưa”, đã trễ nhưng chưa quá trễ, và còn đáng mừng, vì đã bắt
đầu có những tín hiệu lạc quan hơn, như lời khẳng định chân thật của GS sử học
Đinh Xuân Lâm, người cũng đã từng chủ trì các sách giáo khoa môn sử cho một số
cấp lớp phổ thông trước đây nói rằng: “Từ lâu chúng tôi đã rất đau đầu để
chứng minh một cách khoa học và giản dị với các nhà quản lý giáo dục là chúng
ta đang hiểu sai về môn lịch sử. Đó không phải là một môn giáo dục, tuyên
truyền chính trị thông qua các sự kiện và con số, mà là một môn khoa học với
tất cả sự hấp dẫn và khó khăn của nó. Lịch sử cần được nghiên cứu và trình bày
một cách khách quan, không thiên kiến thì mới tạo ra sự hấp dẫn được. Tôi dạy
sử hơn nửa thế kỷ, tôi biết trẻ em đứa nào cũng yêu thích môn lịch sử. Chính
người lớn làm cho nó hết yêu” (Báo Tuổi trẻ, số ra ngày 1/8/2011).
Nhưng người lớn là ai?
Ngoài các nhà quản lý giáo dục phải chịu trách nhiệm tương đối trực tiếp ra,
còn có các nhà sử học đầu đàn như ông không, và rồi ai nữa, thì ông Đinh Xuân
Lâm chỉ dừng lại chỗ đó mà không chịu nói rõ!