“ Văn hóa là chân thắng. Kinh tế là chân ga ”
Nguyên Ngọc
Nguyên Ngọc
Trong bài Văn hóa…để làm gì ? (Vietnamnet, 10.7.2009), Nguyên Ngọc viết : “ Những
gì gọi là văn hóa chúng ta đang làm thường rất ồn ào, và văn hóa thật thì lại
không ồn ào. Nó thâm trầm. Cái thắng có ồn ào bao giờ đâu, trừ khi phải thắng
gấp vì sắp chết đến nơi ! Chúng ta chưa thật sự làm văn hóa. Có phải thật thế
không ? Tôi rất mong được thử trao đổi,để cùng suy nghĩ tiếp, và để cho cuộc đi
tới của chúng ta hôm nay, và cả ngày mai nữa, nhanh mà vững, mà bền, và nói cho
cùng, để cuộc đi tới của chúng ta hôm nay thật sự đưa đến sự trong lành cho xã
hội và hạnh phúc cho con người ”.
Với nhận định trên đây, nhà văn Nguyên Ngọc đã có sự
trăn trở của một nhà văn hóa, hay,đúng hơn, của một nhà phê phán văn hóa, tiếp
nối một truyền thống có lịch sử rất lâu dài và phong phú, nhưng đặc biệt nổi
bật trong thời gian gần đây. Xinđóng góp phần nhỏ vào cuộc trao đổi này chung
quanh một vài điểm liên quan đến khái niệm văn hóa và phê phán văn hóa đang
được thảo luận ở các nước phát triển.
TỪ SỰ
MỞ RỘNG KHÁI NIỆM VĂN HÓA…
Hiện nay, khái niệm văn hóa đang được mở rộng và, đôi
khi có sự thay đổi sâu sắc về ý nghĩa. Thông thường, văn hóa được hiểu theo
nghĩa hẹp của một phạm vi đặc thù : văn chương nghệ thuật, khoa học với sợi dây
nối kết là triết học. Nó đồng nhất với biểu trưng về “Chân-Thiện-Mỹ” như trong
quan niệm ở thế kỷ 19. Văn hóa, theo nghĩa ấy, là giảngđường, nhà hát, thư
viện, nhà bảo tàng, các hội nghệsĩ, các trang “feuilleton”trên báo chí,
và, tất nhiên, là cả các cơ quan phụ trách những lĩnh vực ấy.
Nhưng, ta lại đối diện với một nghĩa rộng hơn. Theo
đó, văn hóa không phải là một khái niệm đặc thù, mà là tổng thể của tất cả
những gì do con người làm ra. Với nghĩa rộng và tổng thể này, văn hóa đồng
nghĩa với “ hình thứcđời sống ”. Định nghĩa này chính thức được thừa nhận trong
văn kiện quốc tế quan trọng nhất về văn hóa. Đó là Tuyên bố Mexico-City về chính
sách văn hóa của Hội nghị thế giới lần thứ hai về văn hóa của UNESCO từ ngày
26.07 đến 06.08.1982 gồm 129 quốc gia thành viên, gồm lời nói đầu và 54 điều
khoản (liên quanđến : bản sắc văn hóa ; kích thước văn hóa và sự phát triển ;
văn hóa và dân chủ ; di sản văn hóa ; sáng tạo và giáo dục nghệ thuật và tinh
thần ; mối quan hệ giữa văn hóa với giáo dục, khoa học và truyền thông ; lập
kếhoạch, quản trị và tài trợ những hoạt động văn hóa ; và sau cùng, sự hợp tác
quốc tế về văn hóa). Định nghĩa chính thức về văn hóa và chức năng của văn hóa
trong Tuyên bố này thật đáng ghi lại :
“ Hội
nghị nhất trí cho rằng văn hóa theo nghĩa rộng nhất là toàn bộ những phương
diện tinh thần, vật chất, trí tuệ và tình cảm tạo nên đặcđiểm của một xã hội
hay một nhóm xã hội. Văn hóa không chỉ bao hàm văn học nghệ thuật mà cả những
hình thức đời sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ thống giá trị,
những truyền thống và những loại hình tín ngưỡng.
Hội nghị nhất trí cho rằng, thông qua văn hóa, con
người có năng lực suy tưởng về chính mình. Chỉ thông qua văn hóa, chúng ta mới
trở thành những thực thể người, có lý trí, có năng lực phán đoán phê phán và có
xúc cảm về bổn phận luân lý. Chỉ thông qua văn hóa, ta mới nhận ra những giá
trị, và tiến hành lựa chọn chúng. Chỉ thông qua văn hóa, con người mới biểu lộ
được chính mình, mới có ý thức về mình, nhận ra sự bất toàn, biết đặt những
thành tựu của chính mình thành vấn đề, tìm kiếm không mệt mỏi những nội dung ý
nghĩa mới mẻ và tạo nên những công trình nhờ đó con người vượt ra khỏi sự hữu
hạn của mình”1.
Chính sách văn hóa, thể hiện chi tiết trong 54 điều, xuất phát từ cách hiểu như
thế về văn hóa và sứmệnh của văn hóa.
Có rất nhiều lý do dẫn đến cách hiểu mở rộng này. Dưới
giác độ xã hội học và kinh tế, đó là sự lớn mạnh của xã hội đại chúng và muộn
hơn là xã hội tiêu thụ, nhất là trong các xã hội Tây phương, từ cuối thế kỷ 19
sang thế kỷ 20. Những gì trước đây thuộc “ văn hóa cao cấp ”, - tức văn hóa
theo nghĩa hẹp - bây giờ trở thành sở hữu chung của quần chúng. Xã hội ấy đòi
hỏi một nền sản xuất có tính công nghiệp về văn hóa, một “ nền công nghiệp văn
hóa ” (Kulturindustrie), như cách đặt tên của Horkheimer và Adorno vào thập
niên 1940 thế kỷ hai mươi. Từ cuối những năm 80, khái niệm “ xã hội văn hóa ”và
cùng với nó, khẩu hiệu “ thẩm mỹ hóa thế giới sống ” trở thành dẫn đạo ở phương
Tây dưới ảnh hưởng của trào lưu hậu-hiện đại Pháp và phong trào“ cultural
studies ” ở khu vực Anh-Mỹ.
Có cả những lý do chính trị, với nhiều nghịch lý lạ
thường. Chính các khái niệm về bản sắc văn hóa, bảo vệ lịch sử và ngôn ngữ dân
tộc, chứkhông chỉ sự nghèo đói, bị bóc lột, áp bức, là những yếu tố quyết định
nơi các phong trào giải phóng dân tộc từ những thập niên 50, và cả trong các
phong trào nữ quyền ở một số thời kỳ nhất định. Terry Eagleton2có
một nhận xét lý thú : khi ngôn ngữ kêu đòi “ giải phóng ” chuyển từ lĩnh vực
chính trị sang lĩnh vực văn hóa, vô hình trung “ cánh tả ” đã sử dụng trở lại
hệ khái niệm cố hữu của “ cánh hữu ” mà hình thức cực đoan nhất của nó ngày nay
là của Leo Strauss và Samuel P. Huntington về “ sự xung đột giữa các nền văn
hóa” (và Eagleton không ngần ngại gọi là “ dã man ” !):“ Sau chiến tranh lạnh,
trên thế giới chỉ còn đáng kểlà những ngọn cờ và những biểu trưng về bản sắc
văn hóa như chữ thập, trăng lưỡi liềm và thậm chí cảkhăn đội đầu, vì văn hóa
giữ vai trò quyết định ”3.
… ĐẾN
SỰ ĐẢO NGƯỢC Ý NGHĨA
Khái niệm “ văn hóa ” không chỉ được mở rộng mà còn
trải qua nhiều cuộc đảo lộn về ý nghĩa nữa. Sự đối lập ban đầu của nó với sự “
dã man ” được thay thế bằng sự đối lập khác trong bản thân nền văn hóa : giữa
văn hóa và văn minh. Cặp khái niệm này xuất phát từ Immanuel Kant và mang đặc
thù của nước Đức. Khác với Rousseau, Kant không còn viện dẫnđến “ tự nhiên ”
như yếu tố bên ngoài để so sánh, mà viện đến một sự phân biệt nội tại, đó là
giữavăn hóa và văn minh. Đặc điểm phân biệt ở đây làluân lý
: bao lâu ta chỉ tuân theo những luật lệ và quy ước xã hội (kỳ cùng là từ những
động cơ vị kỷ), ta chỉ mớiđược “ văn minh hóa ” (ziviliziert). Chỉ trở
thành “ văn hóa ” (kultiviert) khi ta làm việc ấy với lòng xác tín sáng
suốt. Tuy việc đối lập “ văn hóa / văn minh ” làđặc thù của nước Đức, nhưng từ
những năm 60 thếkỷ trước, nó trở thành phổ biến khi văn hóa đượcđặt ở vị trí ưu
tiên trước chính trị.
Tuy nhiên, vị trí ưu tiên của văn hóa lại gắn liền với
một sự đảo lộn quan trọng về ý nghĩa bên trong khái niệm này. Trong khi khái
niệm “ văn minh ” bây giờ đại diện cho các giá trị hiện đại như tính phổ quát,
sự tự trị, tính chủ thể, tính lý tính, sự tự phê phán và cả sự tự trào, thì
khái niệm“ văn hóa ” lại biểu thị sự đối nghịch với những giá trị ấy. “ Văn hóa
” mang ý nghĩa bảo thủ,tiền-hiệnđại của sự trung thành mù quáng và tình cảm gắn
bó với cộng đồng mà mình thuộc về, và, vì nó, trong những tình huống cực đoan,
người ta sẵn sàng gây chiến và đổ máu. Hành động không còn được biện minh bằng
những lý lẽ mà người khác có thể chia sẻ,trái lại, bằng việc nhân danh nền “
văn hóa ” riêng của mình : tôi hành động như vẫn luôn hành động nhưthế trong
cộng đồng của tôi. Một thứ “ chủ nghĩa duy văn hóa ” như thế xâm nhập cả vào
trong tư duy khoa học. Cái gọi là “ bước ngoặt văn hóa ” (cultural turn)
trong các ngành khoa học nhân văn, ở dạng cực đoan, sẽngoảnh lưng lại với tư
duy chính trị và xã hội. Người ta có khi không khỏi nhận ra một sự “ tương đồng
thật mỉa mai ” giữa một số biểu hiện của chủ nghĩa hậu-hiệnđại và… Hồi giáo cực
đoan ! Bao lâu “ văn hóa ” vẫn còn được hiểu như một sự đối lập nàođó với tính
chất phổ quát của “ văn minh ”, sẽ ẩn chứa một nguy cơ : văn hóa trở thành bạo
động, thậm chí, “ dã man ”4.
Việc gắn “ văn hóa ” với… “ dã man ”không phải hoàn
toàn mới lạ. Ở phương Tây, Friedrich Schiller, nếu không phải là người đầu tiên
thì cũng là người nhấn mạnh một cách nổi bật. Trong bức thư thứtám trong Các
bức thư về giáo dục thẩm mỹ (1795), Schiller đãđặt câu hỏi : “ tại
sao chúng ta vẫn còn là những con người dã man ? ”. Theo Schiller, con
người “ hoang dã ” đặt tình cảm lên trên những nguyên tắc, ngược lại, con người
“ dã man ” dùng những nguyên tắc để phá hủy tình cảm. Hai phương diện này –
người hoang dã và người dã man, sự ngự trị của tình cảm hoặc của nguyên tắc –,
theo Schiller, không chỉ diễn ra tuần tự trong lịch sử,mà còn có thể diễn ra
đồng thời, như ở thời ông :“ dã man ” trở thành một đặc tính cơ bản của văn
hóa, và đó không gì khác hơn là sự khắc nghị, xơ cứng của những quy phạm có giá
trị tuyệt đối trong xã hội, hay nói khác đi, sự “ dã man ” của lý tính luân lý.
Nếu thừa nhận cùng Schiller rằng “ không bao giờ có
một trang nào của văn hóa mà không đồng thời là một trang của sự dã man ”
(Walter Benjamin), thì ngày nay cách hiểu về sự “ dã man ” này cũng có sựthay
đổi. Schiller hiểu đó là thế giới của lý tính phiến diện, nghiêm ngặt, giáo
huấn, phán truyền, còn ngày nay người ta hiểu đó là thế giới của những nềnếp
suy nghĩ và hành động giáo điều, không-phảntư,không đặt nền trên sự lập luận và
đối thoại. Nhưng, điểm chung giữa Schiller và chúng ta ngày nay là đều thấy cần
tiến hành phê phán văn hóa và có cái nhìn tỉnh táo về khái niệm rất hàm hồ này.
“ VĂN
HÓA ” BỊ BAO VÂY
Trong thế kỷ 21, “ văn hóa ” có còn giữ được vai trò “
chân thắng ”, xét cả ở phạm vi rộng lớn của thế giới hiện đại, nhất là ở các xã
hội phát triển, mà sớm muộn cũng sẽ có ảnh hưởng mạnh mẽ đến nước ta ? Viễn
cảnh vừa có vẻ khá ảm đạm và phức tạp, vừa le lói những tia hy vọng, ít nhất
với ba “ triệu chứng ” đang thu hút sự quan tâm của công chúng lẫn giới chuyên
môn :
1. “
Thế giới cuộc sống ” (văn hóa) bị “ hệ thống ”(tiền và quyền lực) bao vây
Con người chủ thể văn hóa giao tiếp với nhau trong
chân trời của một “ thế giới cuộc sống ”.Thế giới cuộc sống hầu như là nơi
người nói và người nghe gặp nhau, theo định nghĩa của Jürgen Habermas.“ Thế
giới cuộc sống ” (văn hóa) và “ hệ thống ”(tiền và quyền lực) là sự lưỡng phân
giữa một bên là sự tái sản xuất biểu trưng và bên kia là sự tái sản xuất vật
chất của xã hội. Chính trong diễn trình tiến hóa của đời sống văn hóa - xã hội
mà hai lĩnh vực tái sản xuất này phân hóa thành hai lĩnh vực hoạt độngđộc lập.
Với Habermas, tiến trình này là đặc điểm trung tâm của xã hội hiện đại, với ba
giai đoạn phát triển :
- các xã hội truyền thống : “ thế giới cuộc
sống ” chưa bị phân ly với “ hệ thống ”, nghĩa là, những hình thức xã hội trong
đó sự tái sản xuất vật chất còn được điều chỉnh và chi phối bởi lĩnh vực của
những giá trị văn hóa. Các chuẩn mực văn hóa còn ảnh hưởng quyết định đến các
điều kiện của nền sản xuất vật chất.
- giai đoạn thứ hai, từ thời Cải cáchđến thời
công nghiệp hóa, “ hệ thống ” bắt đầu tách rời “ thế giới cuộc sống ”, với hệ
quả :“ quyền lực chính trị ” và “ quyền lực đồng tiền ”– như là công cụ điều
chỉnh của “hệ thống” – vốn quy định lô gíc hành động của con người, nay đã
bịphân ly với những giá trị và chuẩn mực văn hóa. Sựxâm hấn của “ hệ thống ”
lên “ văn hóa ” được Habermas gọi là “ sự thuộc địa hóa thế giới sống ”.
- giai đoạn thứ ba hiện nay là sự bùng nổ công
khai sự xung đột giữa “ hệ thống ” và “ thếgiới cuộc sống ”. Giải pháp nào cho
nó là câu hỏi cònđể mở5.
2. “
Sức mạnh của những liên kết yếu ”
Trong tác phẩm nổi tiếng Con người mềm
dẻo, 19986, nhà xã hội học Richard Sennett dường như đã
phác họa hình ảnh con người trong “ nền văn hóa của chủ nghĩa tư bản mới
” khi bước vào thiên niên kỷ thứ ba, nhưlà hệ quả của những phân tích trên đây
của Habermas. Sự phân tích không mấy tích cực về những thay đổi trong thế giới
lao động tương lai cho thấy : “ chủ nghĩa tư bản mới ” sẽ vượt bỏ mọi ranh
giới, tháo dỡnhững cấu trúc mang tính định chế mà con người đã quen thuộc trước
nay. Thay vì có sự an toàn, vững chắc của công ăn việc làm, và có thể dự tính
được tương lai sẽ là trải nghiệm về một sự “ nổi trôi ” : từmột “ trật tự dài
hạn ” trở thành một sự “ làm ăn tạm bợ ”. Thay cho hình mẫu định chế quen thuộc
sẽlà những cấu trúc kiểu nối mạng. “ Chủ nghĩa tư bản mềm dẻo ” xóa bỏ những
cấu trúc dựa trên tính dài hạn, bởi “ những cấu trúc kiểu nối mạng sẽ ít nặng
nề hơn ”. “ Sức mạnh của những liên kết yếu ” là hữu ích hơn những liên kết dài
hạn. “ Tính mềm dẻo ”sẽ làm phai nhạt những “ tính cách cố định ”, buộc con
người phải sẵn sàng “ chấp nhận sự phân mảnh ”.Kết quả sẽ hình thành mẫu người
“ mềm dẻo ” : “ một cái Tôi linh hoạt, một sự cắt dán của những mảnh vụn
luôn biến động, luôn mở ngỏ với những trải nghiệm không ngừng mới mẻ. Đó chính
là những điều kiện tâm lý chuẩn bị cho thế giới lao động ngắn hạn, không bền
vững, không an toàn ”.
Đàng sau sự biến đổi trên bề mặt ấy là sự
chuyển dịch sâu xa trong cấu trúc kinh tế - văn hóa : lao động sản xuất theo
nghĩa cổ điển ngày càng mất vị trí cố hữu trong các quốc gia giàu có, và được
chuyển sang các nước nghèo. Giao dịch tiền tệ gia tăng trọng lượng, và cùng với
nó, công ăn việc làm chuyển dịch từ lao động sản xuất sang lao động quản lý,
quảng cáo, dịch vụ và giao dịch. Nền “ văn hóa sựkiện ” (Event Culture)
chính là sản phẩm của nền văn hóa giao dịch tiền tệ, của nền văn hóa của xã hội
dịch vụ, trong đó đồng tiền trở thành nhân tố chủ đạo. Sẽ chỉ còn sự tiêu thụ
đơn thuần – không chỉtiêu thụ thực phẩm mà còn là tiêu thụ văn hóa, tiêu thụ sự
“ tổ chức cuộc sống ”. Bản thân sự trải nghiệm cuộc sống (“ văn hóa sự kiện ”)
cũng trởthành hàng hóa, có thể mua, bán, cho thuê, nhất là máy móc, thiết bị,
bản quyền, để được phép sử dụng dù chỉ trên màn hình (vd : những trò chơi điện
tử…).Nếu văn hóa của con người là văn hóa của những mối quan hệ, từ chính những
mối quan hệ này sẽ quy định cả chính trị.
3. Việc
“ không có công ăn việc làm ” trong lòng “ xã hội lao động ”
Thời cổ đại quý trọng sự nhàn rỗi, và đánh giá
“ lao động ” từ sựnhàn rỗi. Ngược lại, thời cận và hiện đại tôn vinh lao động
và xuất phát từ lao động để đánh giá thấp việc không lao động. Hậu quả nghịch
lý : chính sự hợp lý hóa sản xuất đã tạo ra sự thất nghiệp (Keynes),đồng thời,
người thất nghiệp cảm thấy mất hết ý nghĩa cuộc sống và cả giá trị bản thân,
bởi lao động vẫn được xem như một giá trị và giá trị ấy chỉ có thể hiện thực
hóa thông qua lao động. Đúng như Günther Anders nhận định : “ Vấn đề không
còn là phân phối công bằng những thành quả của lao động, mà là làm sao cho con
người chịu đựng nỗi những hậu quả của việc không lao động ”7.
Tóm lại, trong viễn cảnh như thế, khi “ văn
hóa ” không chỉ còn có nghĩa hẹp như các giá trị tinh thần theo sơ đồ “ thượng
tầng ” và “ hạ tầng ”, trái lại, được triển khai trong toàn bộ “ hình thức cuộc
sống ” (bản thân việc phân biệt “ thượng tầng / hạ tầng ” thật ra là công việc
của… thượng tầng, và, chẳng lẽ “ hạ tầng ”không có và nằm bên ngoài văn hóa ?),
thì định nghĩa vềvăn hóa và sứ mệnh văn hóa theo Tuyên bố UNESCO cầnđược hiểu
và vận dung như thế nào ?
MÔ HÌNH
MỚI VỀ SỰ PHỒN VINH ?
Mô hình “ chân thắng, chân ga ” có lẽcần được
đặt lại trên một cơ sở mới : văn hóa –vốn mong manh – không đủ sức chạy theo
hoặc tìm cách kìm hãm kinh tế, trái lại, cần song hành với nó, và cùng biến đổi
với nó. Nhưng, muốn thế, phải dùng chính sức mạnh văn hóa để đề xướng và tác
động cho một “ mô hình mới về sự phồn vinh ”.Ernst Ulrich von Weizsäcker trong Chính
sách trái đất (1989)8đã thử suy nghĩ theo chiều hướng ấy. “ Mô hình
mới về sự phồn vinh ” này dựa trên một số nhân tố cơbản sau đây :
- những công nghệ tiết kiệm tài nguyên (sạch,
hiệu quả, sinh thái, minh bạch, chấp nhận sửa sai và phù hợp với lao động cá
nhân.
- một cuộc cách mạng mới đối với các ngành
khoa học, khắc phục tư duy cơ giới và xem trọng các ngành khoa học nhân văn và
tinh thần.
- sự tự do của hoạt động con người, nghĩa là,
cần một định nghĩa mới về lao động: giảm thiểu hoạt động kinh doanh đơn thuần,
hướng đến laođộng cá nhân thân thiện với môi trường, với sức khỏe và việc chăm
sóc con người, hướng đến những hoạt động tự quyết của cá nhân, trong đó giáo
dục, văn hóa, việc tham dự chính trị, tăng cường thụ hưởng nghệ thuật và nâng
cao tình bạn và tính liên đới xã hội giữ vai trò quan trọng.
Như đã nói, những sáng kiến công nghệ, việc
nâng cao năng suất, gia tăng tiết kiệm và cạnh tranh tất yếu sẽ dẫn đến việc
giảm thiểu nhu cầu lao động. Đón trước tình hình ấy,đang và sẽ có những tiền đề
thuận lợi cho một định nghĩa mới về lao động: con người khẳng định được giá trị
bản thân từ những phản ứng của người khác. Giá trị bản thân chỉ có khi tỏ ra
hữu ích cho những người khác, với rất nhiều hình thức khác nhau, từthiện nguyện,
vô vị lợi đến được trả lương hay thù lao tương tự như hoạt động kinh doanh.
Quan trọng nhất là một quan niệm mới về sự phồn vinh : không cònở chỗ chiếm hữu
nhiều tiền, mà ở chỗ có thêm nhiều thời gian và sự sáng tạo chủ động trong nội
dung công việc. Nhiều người thất nghiệp đã có những trải nghiệm thú vị về việc
này. Từ đó, ở các nước phát triển, người ta đang nghĩ đến những những giải pháp
sáng tạo, phù hợp với tình hình ngày càng gia tăng sốlượng những người “ thất
nghiệp ”. Biến một tệtrạng thành một lợi thế, thậm chí, thành một cơ hội cho
việc chuyển đổi quan niệm sống, dẫn tới sựchuyển đổi xã hội, đó là bài toán
không phải không có lời giải, một khi xã hội từ bỏ quan niệm cũ, đầy thành kiến
về “ lao động ”, “ không lao động ”, “ sản xuất / tiêu thụ ” v.v…
Mô hình mới này cũng nhất thiết đòi hỏi một
cách hiểu mới về giáo dục. Xã hội cần tạođiều kiện để người lao động có thể
phát huy tài năng và sở trường bằng nhiều cách khác nhau, chứ không bó hẹp
trong một cách sử dụng duy nhất và một chiều như trước nay. Theo đó, cần trang
bị cho người lao động một nền tảng giáo dục cơ bản thật linh hoạt và càng rộng
càng tốt, gồm tối thiểu bốn thành tố có tầm quan trọng ngang nhau :
- các năng lực phân tích - khoa học nhưtrước
nay, nhưng nhấn mạnh đến quan hệ giữa con người với tự nhiên và đến các mối
quan hệ toàn cầu ;
- nhiều năng lực thủ công để tự giúp mình và
người lân cận, có sự tự tin để tự tay làmđược một số công việc trước nay phải
thuê mướn ;
- các năng lực sáng tạo nghệ thuật đểkhông chỉ
có khả năng tiếp thu những thành tựu văn hóa mà còn chuẩn bị tham gia vào sáng
tạo văn hóa và nghệthuật ;
- các năng lực xã hội : từ việc cảm nhận và
chia sẻ những khó khăn và đau khổ của người khác, cho đến chỗ thấu hiểu những
tiến trình của hoạt động nhóm, khả năng giải quyết những xung đột và tham dự
tích cực vào sinh hoạt chính trị, xã hội ởnhiều cấp độ khác nhau.
Một nền tảng giáo dục cơ bản như thếcần được
mở rộng và bổ sung liên tục bằng những cơ hội thuận tiện trong việc tiếp tục
đào tạo và chuyên môn hóa trong một hệ thống “ học suốtđời ”. Với sự chuyển
hướng như thế, người lao động có thể dễ dàng thay đổi các giai đoạn trong đời
mình: những giai đoạn đi làm thuê và những giai đoạn tựhoạt động theo ý thích.
Trước những biến động không lường trước được của xã hội hậu-côngnghiệp, con
người không còn bị buộc phải chấp nhận những điều kiện lao động tồi tệ với đồng
lương chết đói !
Nhiều quan niệm“ không tưởng ” trước đây, nếu
chưa thể biến ngay thành sự thật, thì cũng có thể trở thành những định hướng
không phải hoàn toàn mơ mộng viển vông, ít ra ởcác nước đã phát triển cao. Ta
nhớ đến Thomas Morus (1478-1535) với hy vọng vào sự rút ngắn thời gian laođộng,
để cho “ mỗi người có nhiều thì giờ ngoài việc kiếm sống ”, nhờ đó học
thêm những gì theo ý thích và “ dành thì giờ rỗi việc cho các ngành khoa học
”9. Ta nhớ đến Tommaso Campanella (1568-1639)
muốn giới hạn thời gian lao động cần thiết vào khoảng bốn tiếngđồng hồ, còn
thời gian nhàn rỗi, dành cho “ học tập, thảo luận, đọc sách, kể chuyện,
viết, đi dạo, tập luyện thể xác và tinh thần, và vui chơi ”10. Gần đây hơn là những học thuyết “ không
tưởng ” của những Henri de Saint-Simon (1760-1825) và Charles Fourier
(1772-1837), nhấn mạnh lạc thú của lao động không bịtha hóa, đến từ hoạt động
sáng tạo và tự chủ của từng cá nhân.
Thế kỷ 21, biết đâu, sẽ đặt những viên đá đầu
tiên cho việc vượt ra khỏi những sự đối lập quen thuộc giữa poiesis(chế
tạo) và praxis(thực hành), giữa vita activa(đời sống hoạt động)
và vita contemplativa(đời sống chiêm nghiệm), giữa homo faber(con
người lao động) và homo ludens(con người vui chơi)… “ Lao động ” và “
không lao động ”sẽ thâm nhập vào nhau về mặt cấu trúc, hay nói khácđi, “ chân
thắng ” sẽ được… gài sẵn vào “ chân ga ” ! Tương ứng với điều ấy, sự phê phán
văn hóa đi từ phê phán chủ quan (Rousseau, Kant) sang phê phán khách quan (Marx)
đến phê phán văn hóa chính trị.
MỘT NỀN
VĂN HÓA ĐỀ KHÁNG !
Văn hóa như là “ chân thắng ”, theo một nghĩa
nào đó, cần trở thành ý thức đề kháng : người lao động ngày càng nỗ lực tự làm
chủ bản thân mình trước những thế lực kinhtế-tàichính khổng lồ,trước những
guồng máy quản lý và kiểm soát ngày càng tinh vi. Sự tự trị và tự quản của cá
nhân nhưphác họa ở trên có nhiều cơ may trở thành hiện thực trong điều kiện mới
của xã hội hậu-hiệnđại. Thật ra, đại đa số người trong xã hội thường có những
mục tiêu khá khiêm tốn trong cuộc sống : một vốn liếng giáo dục hợp lý, một thu
nhập vừa phải và ổn định, một hoạt động tự do theo ý thích, yên tâm nuôi dạy
con cái, có một tuổi già mạnh khỏe và một cái chết an lành. Những mục tiêu ấy
không có gì chung với một thái độ tiêu thụ vô độ cả.
Chính sự khủng hoảng trong đời sống kinh tế,
chính trị – sẽ còn diễn ra không ngừng trong thế kỷ 21 – lại tạo cơ hội cho con
người khôi phụcđược những không gian tự do và tự quyết của mình thông qua hành
động đoàn kết và liên đới. Những nhóm tự nguyện,
những sáng kiến công dân để giúp đỡnhau, những hình thức liên kết của một xã
hội dân sựphát triển cũng chính là “ chân thắng ” có giá trịthực tiễn. Về mặt
kinh tế, đó cũng là một “ nền kinh tế thị trường đích thực từ “ bên dưới
”(Hernando de Soto). Về mặt tinh thần, nó mở đường cho những hình thức mới mẻ
của cuộc sống, qua đó con người sáng tạo, trải nghiệm, học hỏi và kỳ cùng, vun
bồi phẩm chất văn hóa của chính mình.
Bùi Văn
Nam Sơn
15.07.2012
(Bài này viết cho tập Kỷ yếu mừng sinh nhật 80 tuổi của nhà văn
Nguyên Ngọc : Nguyên Ngọc vẫn trên đường xa, nhà xuất bản Tri
thức 2012)
1 Mexico City Declaration on Cultural Policies (MONDIACULT), World Conference on Cultural Policies,
06.08.1982, UNESCO
2 Terry Eagleten : “ Culture and Barbarism.
Metaphysics in a Time of Terror ”, trong : Commonweal. A review of
religion, politics and culture. 27.3.2009, Vol. CXXXVI, 6, dẫn theo
Josef Früchtl (tài liệu giảng dạy chưa công bố).