Đức Cha Vinh-sơn Nguyễn Văn Bản
Anh em thân mến,
Chủ đề của tuần thường huấn này là « Métanoia :
Hành trình về với Chúa ». Nếu hiểu từ Métanoia theo nghĩa thông thường là
« thay đổi ý kiến, hoán cải », chủ đề này gợi lên cho chúng ta một định
hướng rõ nét : trên con đường về với Chúa, con người cần biết điều chỉnh
không ngừng những suy nghĩ, lựa chọn của mình, cho phù hợp với ý muốn của Thiên
Chúa. Sự điều chỉnh này có thể chỉ là một sự thay đổi trong nhận thức[1],
nhưng đôi khi sự điều chỉnh đòi hỏi người đón nhận phải thay đổi cả quan niệm sống,
cắt đứt với quá khứ, để sống cuộc sống mới[2].
Để có được sự điều chỉnh quan niệm sống hoặc niềm tin một cách dứt khoát, cần
phải có ơn Chúa và tấm lòng biết lắng nghe chân thành của người đón nhận. Kinh
nghiệm cũng cho thấy rằng sự điều chỉnh này cần phải được thực hiện trong suốt
cả cuộc đời, bời vì bản tính tội lỗi của xác thịt nơi con người hoán cải luôn
tìm cách thỏa hiệp với khuynh hướng chiều theo ý mình hơn là sống theo ý Chúa.
Trong bài thuyết trình ngắn này, chúng ta sẽ tìm hiểu về « métanoia
nơi thánh Phaolô », và bởi vì thời gian không cho phép trình bày nhiều
khía cạnh về vấn đề này, chúng ta sẽ tập trung tìm hiểu về kinh nghiệm bản thân
của vị Tông Đồ Dân Ngoại về sự hoán cải.
1/ Bối cảnh mở đường
cho sự hoán cải
Trong các thư của thánh Phaolô, chúng ta có thể tìm thấy bản
văn Gl 1, 11-24 như là lời tự thuật về ơn gọi của ngài. Sau khi khẳng định Tin
Mừng mình rao giảng là do chính Chúa Giê-su mạc khải, chứ không phải do bất kỳ
ai truyền lại, thánh Phaolô nhắc lại cho cộng đoàn biết cuộc sống của ngài trước
và sau khi gặp gỡ Đức Kitô như thế nào.
Thánh Phaolô giới thiệu về mình : « Anh em hẳn đã nghe nói tôi đã ăn ở thế nào
trước kia trong đạo do-thái : tôi đã quá hăng say bắt bớ, và những muốn
tiêu diệt Hội Thánh của Thiên Chúa. » (c. 13). Điều này được kiểm chứng
trong TĐCV, khi thánh Luca kể về hoàn cảnh của Giáo Hội sơ khai (8, 1-3) hay kể
về cuộc trở lại của Phaolô (9, 1-2 ; 22, 4-5 ; 26, 9-11). Theo cách
trình bày của Luca, thái độ hăng say bắt bớ người tín hữu của Phaolô được thúc
đẩy do sự trung thành với Lề Luật, nhiệt thành phục vụ Thiên Chúa (22, 3) và
tìm mọi cách để chống lại danh Giê-su, người Nadareth (26, 9).
Tại sao sự nhiệt thành phục vụ Chúa và trung thành với Lề
Luật lại đẩy Phaolô đến thái độ « chống
lại danh Giê-su, người Nadareth » ? Chúng ta nghe Phaolô tự giới
thiệu : « Trong việc giữ đạo
do-thái, tôi đã vượt xa nhiều đồng bào cùng lứa tuổi với tôi : hơn ai hết
tôi đã tỏ ra nhiệt thành với các truyền thống của cha ông» (Gl 1,14). Trong
lời ngỏ với những người do-thái tại Giê-ru-salem đang tìm cách loại trừ mình,
thánh Phalô nói : « Tôi là người
do-thái, sinh ở Tarsô miền Kilikia, nhưng tôi đã được nuôi dưỡng tại thành
này ; dưới chân ông Gamaliel, tôi đã được giáo dục để giữ Luật cha ông một
cách nghiêm ngặt. Tôi cũng đã nhiệt thành phục vụ Thiên Chúa như tất cả các ông
hiện nay ». (22, 3). Dựa trên những chi tiết này, chúng ta có thể vẽ
nên bức tranh về cuộc đời của thánh Phaolô trước khi gặp Chúa Giê-su Phục Sinh
như sau.
Phaolô được sinh ra trong một gia đình do-thái truyền thống
ở Tarse, miền Kilikia, thuộc quyền đế quốc La-mã, nằm ngoài lãnh thổ Palestine.
Để bảo đảm cho Phaolô được giáo dục trong truyền thống pharisiêu chính thống,
gia đình của Phaolô, cũng giống như những gia đình do-thái đang sống ở hải ngoại
mà có điều kiện, đã gởi ông về Giê-ru-salem theo học với thầy Gamaliel (Cv 5,
34-39). Không biết là Phaolô theo học ở Giê-ru-salem vào thời điểm nào, nhưng có
lẽ ông không có mặt ở Palestine trong thời gian Chúa Giê-su đi rao giảng công
khai, và khi ông trở lại Giê-ru-salem thì Giáo Hội đã phát triển một cách mạnh
mẽ (Cv 6, 7). Ông xuất hiện lần đầu tiên trong sách TĐCV vào lúc người ta ném
đá Stêphanô và được coi như là đồng tình với hành vi giết người vô tội này (7,
58 ; 8, 1).
Bởi vì không được tiếp xúc trực tiếp với Chúa Giê-su, cũng
như không có mối tương quan mật thiết với các môn đệ, nên những điều Phaolô biết
về nhân vật này là qua cách trình bày của nhóm lãnh đạo do-thái và nhóm
pharisiêu chống đối lại Tin Mừng. Người ta gán cho Chúa Giê-su các tội :
làm điều ác (Ga 18, 30), « tự xưng làm vua » (Ga 18, 33-37), « tự
xưng là Con Thiên Chúa » (Ga 19, 7). Những điều tố cáo Chúa Giê-su trước mặt
Philatô dịch chuyển từ lãnh vực luân lý, đến chính trị, rồi bước sang lãnh vực
tôn giáo. Việc Chúa Giê-su mạc khải mình là Con Thiên Chúa (Ga 5, 18, 20 ;
10, 33) bị coi như là một sự phạm thượng, và theo Luật thì phải chịu án tử (Lv
24, 16). Tin đồn được các Thượng Tế tung ra sau khi Chúa Giê-su sống lại (Mt
28, 11-15) cũng một phần nào củng cố lập trường của những kẻ loại trừ Người.
Có lẽ cách trình bày của những người lãnh đạo do thái, mà
phần lớn là những người thuộc phái pharisiêu, đã ảnh hưởng rất nhiều đến người
thanh niên đầy nhiệt huyết với Lề Luật này. Vì thế, Phaolô đã có thái độ
« chống lại Danh Giê-su, Người
Nadareth » để bảo vệ Lề Luật. Ở đây, chúng ta thấy là Phaolô không chống
lại Giê-su, vì người này đã chết, nhưng chống lại những người rao giảng nhân
Danh Giê-su, nghĩa là các môn đệ của Người. Và Phaolô đã tham dự vào cuộc ném
đá Stêphanô.
Cái chết của Êtiên đã để lại trong Phaolô nhiều câu hỏi
và nhiều điều chuẩn bị cho ngài đón nhận niềm tin vào Đức Giêsu Kitô. Sự trái
nghịch giữa điều người ta tố cáo Êtiên[3] và thái độ của
người môn đệ trước những lời vu cáo bất công là một điểm đáng suy nghĩ. Đọc lại
bài diễn từ của Êtiên trước Thượng Hội Đồng, chúng ta thấy lời tố cáo này không
đúng sự thật; vì từ 7, 2 đến 7, 50, Êtiên chỉ tóm lại lịch sử của dân Chúa qua
cách trình bày của sách Xuất Hành; còn từ câu 51 đến 53, Êtiên họa lại lời của
các tiên tri lên án thái độ cứng lòng của những người lãnh đạo do-thái. Trong
toàn bộ diễn từ này, không có điểm nào xúc phạm đến Nơi Thánh và Lề Luật như lời
người ta tố cáo ngài. Hơn nữa, ngài còn được thấy vinh quang Thiên Chúa và thấy
Đức Giêsu đứng bên hữu Thiên Chúa. Đây có thể là một thị kiến hoặc cũng có thể
là một cuộc thần hiển. Chắc chắn là những người căm ghét Êtiên không thấy được
cảnh tượng này nên họ căm tức lôi ông ra ngoài thành và ném đá. Nhưng về phần
Phaolô, ông có thấy điều gì khác lạ không ? Hơn nữa, thái độ của Êtiên khi bị
ném đá chứng minh là sự vu cáo và sát hại của những kẻ ghét ngài là vô lý :
ngài kêu Tên Cực Trọng Chúa Giêsu và xin Chúa Giêsu đừng chấp tội những người
đó. Có kẻ gian ác nào mà dám coi thường cái chết của mình vì vinh quang của
Thiên Chúa không ? Có kẻ xấu nào mà lại xin ơn tha thứ cho những kẻ làm hại
mình không ? Cái chết của Êtiên vừa là dịp đẩy người thanh niên còn giữ thái độ
thụ động trong cuộc hành hình đến thái độ bách hại khốc liệt những người mang
Danh Giê-su ; vừa là dịp để Phaolô suy nghĩ về nhân vật Giê-su, kẻ bị những
người lãnh đạo do-thái coi là đã chết, nhưng các môn đệ của Người thì lại bảo
là vẫn còn đang sống. Lời cầu nguyện của Êtiên trước khi chết « Lạy Chúa Giê-su, xin nhận lấy hồn con »
là lời khấn xin với một Đấng đang hiện diện, chứ không phải là một người đã chết.
2/ Gặp gỡ Đấng Phục
Sinh, tác nhân của sự hoán cải
Sự thay đổi cuộc sống của thánh Phaolô bắt nguồn từ sự gặp
gỡ với Đức Kitô Phục Sinh trên đường Damas. Theo sách TĐCV, trên đường gần đến
Damas, ngài đã thấy một luồng sáng từ trời chiếu xuống bao phủ lấy mình, và làm
ông ngã xuống đất. Trong ánh sáng này, có tiếng nói gọi đích danh và chất vấn
ông : «Sa-un, Sa-un, tại sao người bắt
bớ Ta ? » Rồi Đấng ấy giới thiệu mình : « Ta là Giê-su mà ngươi đang bắt bớ »
(9, 5). Sự xuất hiện của Chúa Giê-su Phục Sinh làm cho Phaolô choáng ngợp. Một
người tưởng đã chết, thì nay lại xuất hiện như Đấng có uy quyền. Một Đấng được
các môn đệ tin là Con Thiên Chúa lại tự đồng hóa mình với những người tín hữu
nhỏ bé khốn cùng đang bị truy đuổi.
Đức Kitô Phục Sinh đã hiện ra với Phaolô. Đây là điều
không thể giải thích và cũng không thể chối cãi được. Nếu Người đang còn sống,
thì niềm tin của những người môn đệ thật có lý. Và từ đó, ông bắt đầu đặt lại vấn
đề con đường ông đang đi, những điều ông đã nhân danh để loại trừ danh Giê-su,
về con người Chúa Giê-su và niềm tin của các môn đệ. Trong khi bị giằng co và
phải tìm hiểu lại ý nghĩa của những vấn đề liên quan đến đời sống tôn giáo của
mình, Phaolô vẫn có một lập trường rất rõ rệt : « Tôi đã chẳng thuận theo các lý do tự nhiên,
cũng chẳng lên Giê-ru-salem để gặp các vị đã là Tông Đồ trước tôi, nhưng tức khắc
tôi đã sang xứ Ả-rập, rồi lại trở về Damas » (Gl 1, 16-17).
« Tôi đã chẳng
thuận theo các lý do tự nhiên », trong bản văn hy-lạp viết « Tôi không chạy theo thịt và máu »,
lối nói của người do-thái diễn tả con người chỉ biết dựa vào sức lực của riêng
mình (x. Mt 16, 17 ; 1 Co 15, 50). Dựa theo sức riêng mình nghĩa là dựa
vào cách suy nghĩ, tình cảm của mình, xem cách đánh giá của mình là tiêu chuẩn.
Trong trường hợp một người tìm mọi cách biện minh cho hành động của mình hơn là
tìm hiểu chân lý, người đó sẵn sàng tiếp tục chống đối cho đến cùng. Trường hợp
của những người do-thái tìm mọi cách để loại trừ Chúa Giê-su chứng minh cho điều
này. Dẫu cho được thấy những dấu lạ Chúa làm, họ không ngần ngại gán cho Người
nhờ tay quỉ vương Bêelzêbul hơn là nhận ra quyền năng của Thiên Chúa đang hiện
diện trong Đức Giê-su. Trường hợp của Phaolô thì khác. Ông không bám chắc vào
thái độ chống đối của mình, nhưng cần phải để cho chân lý được tỏ hiện. Vì thế,
sau khi nghỉ ngơi một thời gian, ông đã đi đến vùng sa mạc Ả-rập. Chính trong
không gian yên lặng của sa mạc mà Phaolô có dịp nghiềm ngẫm ý nghĩa của cuộc gặp
gỡ trên đường Damas, nhìn lại cuộc đời mình, và khám phá ra điều mà mình cần
hoán cải.
Trong bản tự thuật, thánh Phaolô coi sự mạc khải của Chúa
Giê-su Phục Sinh trên đường Damas như là biểu hiện của sự lựa chọn « tiền
định » và ân sủng của Chúa : « Nhưng Thiên Chúa đã dành riêng tôi ngay từ khi còn trong lòng mẹ, và đã
gọi tôi nhờ ân sủng của Người » (Gl 1, 15). Đọc lại những biến cố xảy
ra trong cuộc đời mình dưới sự hướng dẫn của đức tin giúp Phaolô hiểu được rằng
mình đã được yêu thương và tuyển chọn vào ơn gọi tiên tri (Is 49, 1 ; Jr
1, 5). Tình yêu thương Chúa dành cho ông được diễn tả qua việc « mạc khải Con của Người » và sai đi « loan báo Tin Mừng về Con của Người cho các dân ngoại » (Gl 1, 16).
Qua lời tự thuật của thánh Phaolô, chúng ta thấy có sự
chuyển dịch căn bản. Lòng trung tín với Lề Luật được thay thế bằng lòng yêu mến
Chúa Giê-su. Nếu trước kia Lề Luật là trung tâm đời sống và là niềm kiêu hãnh của
người pharisiêu nhiệt thành, thì nay Chúa Giê-su Phục Sinh mới là lời giải
thích tròn đầy cho tất cả Lề Luật. Cách trình bày về « Bài Giảng Trên
Núi » của thánh sử Matthêu trong các chương 5-7 cũng giúp chúng ta hiểu được
cảm nghiệm này[4].
Chính sự gặp gỡ với Đấng Phục Sinh đã làm cho Phaolô tin vào Người, và nhờ niềm
tin này ông có thể hiểu được ý nghĩa của Lề Luật, của mầu nhiệm con người trong
nhiệm cục cứu độ của Thiên Chúa.
Tin vào Chúa Giê-su, Phaolô không hoàn toàn cắt đứt với
quá khứ, nhưng ngài giống như « người
chủ nhà kia biết lấy ra từ trong kho tàng của mình cả cái mới lẫn cái cũ »
(Mt 13, 52). Lòng nhiệt thành với Lề Luật vẫn tiếp tục thể hiện trong lòng nhiệt
thành rao giảng Tin Mừng Chúa Giê-su. Thái độ hăng say truyền giáo cho người
do-thái lẫn dân ngoại chứng minh điều này. Xem lại bản đồ của các hành trình truyền
giáo của ngài, có lẽ không ai trong số các Tông Đồ có thể theo kịp.
Sự hiểu biết về Lề Luật giúp ngài khám phá ra vai trò của
Chúa Giê-su trong lịch sử cứu độ được mạc khải cho dân thánh. Đọc lại lý luận của
ngài trong thư Rôma, từ chương 1 đến hết chương 8, chúng ta thấy được cách ngài
vận dụng sự hiểu biết về Lề Luật để trình bày giá trị đức tin vào Chúa Giê-su của
người kitô hữu, dẫu cho người đó có nguồn gốc do-thái hay hy-lạp. Cách giải
thích luật của rabbin do-thái giúp ngài lý luận vững vàng để hệ thống hóa những
điều phải tin và làm chứng cho điều mình rao giảng. Điều quan trọng là ngài biết
phân biệt rõ ràng giữa điểm chính và những điểm phụ tùy trong niềm tin vào Chúa
Giê-su để được ơn cứu rỗi[5].
Là một người do-thái đạo đức, Phaolô không còn coi trọng
những yếu tố dành riêng của dân thánh, nhưng ưu tiên cho việc kết hợp với Đức
Kitô : « Những gì xưa kia tôi
cho là có lợi, thì nay, vì Đức Kitô, tôi cho là thiệt thòi. Hơn nữa, tôi coi tất
cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Đức Kitô
Giê-su, Chúa của tôi. Vì Người, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như rác, để
được Đức Kitô và được kết hợp với Người » (Ph 3, 7-9). Đức Kitô trở
thành tiêu chuẩn hướng dẫn hành động cho vị Tông Đồ. Vì thế, trong khi đi rao
giảng, điều ngài quan tâm không phải là do-thái hay hy-lạp, nhưng là sự gắn bó
với Chúa Giê-su và thay đổi đời sống cho phù hợp với Tin Mừng.
Ơn được biết Chúa Giê-su mời gọi Phaolô sống tâm tình hoán
cải và thi hành sứ vụ. Sau khi được Khanania đặt tay chữa lành, « Phaolô ở lại Damas mấy hôm, rồi lập tức ông
bắt đầu rao giảng Đức Giê-su trong các hội đường rằng Người là Con Thiên Chúa »
(Cv 9, 19-20). Khi làm chứng rằng Chúa Giê-su là Con Thiên Chúa, Phaolô không
chỉ nói lên niềm tin vào Người, mà còn muốn cho mọi người biết rằng cuộc gặp gỡ
với Đấng Phục Sinh đã làm thay đổi cuộc đời của ông. Chính Chúa Giê-su đã làm
cho cuộc đời của ông có ý nghĩa, và vì thế, ông quyết tâm gắn bó với Người, trở
nên giống Người. Trong khi đi rao giảng Tin Mừng, thánh Phaolô cũng cố gắng
chia sẻ kinh nghiệm mà mình có được qua sự gặp gỡ với Đức Kitô, và ngài cũng ao
ước mọi người sống tâm tình yêu mến như thế.
Anh em thân mến,
Chuẩn bị bước vào Năm Đức Tin, kỷ niệm 50 năm khai mạc
Công Đồng Vatican II và 20 năm công bố sách Giáo Lý Công Giáo, những người mục
tử trong Giáo Hội cũng cần phải biết đọc, học hỏi và đào sâu các văn kiện trên,
để cũng giống như « người chủ nhà
kia biết lấy ra từ trong kho tàng của mình cả cái mới lẫn cái cũ » làm
mới lại đức tin và ý nghĩa đời sống dâng hiến của mình, và nhờ đó giúp cho cộng
đoàn có được đời sống đức tin vững mạnh và theo đúng đường hướng của Tin Mừng.
Điều chỉnh cái nhìn mỗi ngày dựa trên sự hiểu biết Tin Mừng và đường hướng của
Giáo Hội luôn là lời mời gọi tha thiết đối với các vị mục tử. Biến cố Damas vẫn
còn tiếp tục xảy ra trong cuộc sống hôm nay, nếu chúng ta biết khiêm tốn mở
lòng lắng nghe.
[1] Đóng khung cách hiểu trong Lề Luật hay xem Lề
Luật là nơi Thiên Chúa mạc khải. Những người pharisiêu coi Lề Luật như là tiêu
chuẩn để đánh giá Đấng Mêsia, các môn đệ hiểu Lề Luật dưới sự hướng dẫn của
Chúa Giê-su.
[2] Vd. Từ bỏ ngẫu tượng quay về tôn thờ và phục vụ
một mình Thiên Chúa.
[3] Hoï ñöa maáy ngöôøi
chöùng gian ra khai raèng: "Teân naøy khoâng ngöøng noùi nhöõng lôøi phaïm
ñeán Nôi Thaùnh vaø Leà Luaät. Vì chuùng toâi ñaõ nghe haén noùi raèng Gieâ-su
ngöôøi Na-da-reùt seõ phaù huyû nôi naøy vaø thay ñoåi nhöõng tuïc leä maø oâng
Moâ-seâ ñaõ truyeàn laïi cho chuùng ta." (Cv 6, 13-14)
[4] Công thức “Anh em đã nghe Luật dạy
người xưa rằng... Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết... »
[5] Vấn đề cắt bì hay không cắt bì cho
anh em ngoại giáo, ăn của cúng...