Hamvas Béla, Trích tiểu luận triết học: Scientia sacra
Nguyễn Hồng Nhung dịch từ nguyên bản tiếng
Hung
Vannghesongcuulong
1.
Nguồn gốc của thuật luyện vàng (alkimia) đã
mất trong thời cổ. Không có một ký ức xa xưa nào lại không tìm thấy dấu vết
trong nó để lần ra thời xa xưa hơn nữa. Một số người cho rằng thuật luyện vàng
là tri thức phép thuật, và nếu tập hợp phép thuật của toàn trái đất là mười thì
chín có nguồn gốc từ Ai cập. Chính vì vậy tên gọi của thuật này được giải thích
từ từ chem của Ai cập, muộn hơn thêm vào từ al của Ả rập, thành al chem, và sau
cùng với chữ Latin thành al chemi.
Thuật luyện vàng gồm ba phần lớn: dạy về các
nguyên tử, hoạt động luyện vàng và sau cùng dạy về vàng, về đá quý của các nhà
Thông Thái.
Trước khi muốn hiểu về thuật luyện vàng, cần
phải biết những điều sau đây: các nhà luyện vàng nói về muối, lưu huỳnh, thủy
ngân và chất a sen như nói về các nguyên tử; họ nói về sự tan chảy, sự đông
cứng lại, sự tinh ròng lại, trạng thái thiết lập-sửa đổi, làm mềm đi như một
hoạt động; họ nói về việc luyện vàng và việc tìm kiếm đá quý của sự Thông Thái.
Các nguyên tử, sự hoạt động, và mục đích cuối cùng không bao giờ chỉ liên quan
thật sự đến bản thân chúng, nghĩa là chỉ liên quan đến các nguyên tử, sự hoạt
động và mục đích cuối cùng mà thôi.
Thuật luyện vàng là một tổng hợp cổ khái quát
hóa tri thức thế giới vào một sự thống nhất như thế nào đấy. Giống như chiêm
tinh học dựa vào nền tảng sự tương đồng xảy ra của cá tính con người, của số
phận, của thời lịch sử và của vũ trụ. Thuật luyện vàng dựa trên nền tảng tương
đồng (anlogia) mà định hướng có ý thức của cá tính, số phận con người và thành
phần của các nhân tố vật chất cùng tác dụng lẫn nhau giữa các nhân tố này tạo
ra.
Ngày nay người ta thường hay mắc sai lầm là
chỉ chú ý đến ý nghĩa tượng trưng trong các nhân tố của thuật này, và tin rằng
thuật luyện vàng là môn tâm lý học tượng trưng. Đây là một quan niệm sai. Thuật
luyện vàng vừa là tâm lý học, hóa học, vật lý học, vừa là khoa học xã hội, đạo
đức học, sinh lý học, y học, ngoài ra còn là hình thức tu khổ hạnh, là phép
thuật và siêu hình học.
Lưu huỳnh, thủy ngân, muối, chất a sen là
những nguyên tố thế gian như các con số, như Mặt trời hoặc sao Hỏa, sao Mộc
trong chiêm tinh học, như Càn (trời), Khôn (đất), Chấn (sấm) trong Kinh Dịch.
Lưu huỳnh trước tiên có nghĩa là lưu huỳnh
thực chất- sulphur. Nhưng cũng có một nghĩa liên quan đến sao Mộc trong chiêm
tinh học, là sự minh mẫn hoạt động, là đà vượt qua cái TÔI, là khả năng tranh
đấu, là sự bùng cháy. Trong tiếng Hindu lưu huỳnh là radzsasz,
sự tích cực say mê. Ở Mexico nó còn có một nghĩa mà người ta lấy để đặt tên cho
thần Huitzilopohtli, thậm chí nó có quan hệ họ hàng với việc ở Ai cập người ta
gọi nó là Szét.
Nếu các núi lửa phun lửa, đây cũng là hiện
tượng của lưu huỳnh, nhưng trong vật lý, nếu cách mạng, cũng là hiện tượng của
lưu huỳnh nhưng trong xã hội và lịch sử. Lưu huỳnh là nguyên tố thế gian, mang
ý nghĩa lửa say mê, sự nổ bùng, sự bốc cháy bất thình lình.
Với các sức mạnh lưu huỳnh ngự trị trong bản
thân nó, sự cân bằng bị phá vỡ và thế gian bốc cháy: bất kể ở đâu, trong linh
hồn con người, trong cộng đồng, nhà nước, hay bất kỳ ở lĩnh vực nào của thiên
nhiên. Có những tình yêu, tình bạn sulphun, những liên minh, những tư tưởng,
những hiện thực, những sinh linh và những sự vật mà trong đó đặc tính chủ đạo
là sự cháy bỏng rất nhanh và minh mẫn. Có những bức tranh, tòa nhà, khí chất,
triết học sulphun.
Chất a sen, muối, thủy ngân, giống như lưu
huỳnh, là nguyên tố thế gian, những thứ thuở ban đầu khi thế giới là ý tưởng
(idea) và hiện thực tinh thần, trong hình dạng cổ, chúng là bản thể tinh thần.
Chúng vẫn giữ đặc tính tinh thần, nhưng chìm vào bên trong chúng, giống như sự
tỉnh táo, sáng sủa, tri thức siêu việt chìm trong con người.
Một lớp phủ khiến bản thể tinh thần không hoạt
động, vật chất. Vật chất này nhìn thấy được, cân đo được, là lưu huỳnh, a sen,
muối và thủy ngân được khai thác. Nhưng mọi nguyên tố trong hình dạng ban đầu
của nó đều là bản thể vũ trụ, nguyên tố nền tảng của sự tạo dựng. Thuật luyện
vàng sử dụng những nguyên tố này trong ý nghĩa của các ý tưởng cổ: đánh giá và
phân tích chúng như bản thể tinh thần, thậm chí như những công đoạn sử dụng.
Công đoạn của thuật luyện vàng: sublimatio,
descensio, destillation, calcinatio, coagulatio, fixatio, cùng một
cách như nguyên tử: không là một hiện tượng vật chất. Hiện tượng diễn tiến
trong vật chất, nhưng có tác động trở lại với linh hồn, tinh thần và các tầng
thiên thể, đến tận các thế giới cổ xưa nhất, những lĩnh vực tâm linh khai sơ.
Quá trình diễn biến trong thế giới vật chất cũng diễn biến trong linh hồn và
trong các thế giới cao hơn. Mọi calcinatio và fixatio
động chạm lại những quá trình cổ, là những quá trình thuần túy tinh thần trong
trạng thái tinh thần cổ của thế gian.
Vàng và đá của các nhà Thông Thái có nghĩa
rằng, mục đích của thuật luyện vàng không như ngày nay người ta nghĩ, chỉ để
luyện vàng. Mục đích: tìm ra phương pháp luyện vàng và biến thế gian thành
vàng, mang cả thế gian và con người quay trở lại thế giới vàng, thời kỳ hoàng
kim. Vàng ở đây không là gì khác ngoài: asa-điều thiện. Là niềm hứng khởi, hạnh
phúc, sự trù phú, là ánh sáng, tri thức, sự sống thượng đế. Đá của các nhà
Thông Thái là công cụ linh thiêng một lần nữa có thể biến sự sống thành vàng.
Và công cụ phép thuật này một lần nữa không
phải là thứ đồ vật gì, hoặc tri thức và phép thần hay loại đá quý gì, mà là một
thứ có thể tạo ra khả năng cho tất cả mọi người quay trở về với sự sống thiên
đường bất tử ( bởi vậy mới là đá).
2.
Với những kiến thức sơ đẳng trên con người
không còn phải sợ giải thích những màu nhiệm hỗn loạn trong thuật luyện vàng.
Bởi vì các nguyên tố của thuật luyện vàng vô cùng đơn giản. Các nguyên tố trong
buổi ban đầu là các nguyên tố thế gian.
Nguyên tố là một bộ phận sáng tạo ra thế gian,
không thể quay ngược trở lại thành cái khác. Buổi ban đầu, các nguyên tố tinh
thần tạo dựng ra thế gian. Khi rơi vào vật chất con người kéo cả thiên nhiên
theo nó, và các nguyên tố tinh thần này cũng biến thành vật chất. Như vậy các
nguyên tố tinh thần đã biến thành các nguyên tố vật chất. Và trong thế giới vật
chất chúng cũng liên quan với nhau như trong thế giới tinh thần: theo một trật
tự nhất định mang tính chất dãy số và hình học, tuyệt đối thống nhất và tròn
trặn.
Nguồn gốc của tính thống nhất này có trong
thiên nhiên đầu tiên, khi các nguyên tố ý tưởng hình thành trong một trật tự và
một đẳng cấp hoàn hảo bởi ý nghĩa siêu việt trong sự sống tinh thần, chúng
trong suốt, tinh khôi, mang tác động tương hỗ lẫn nhau, cân bằng lẫn nhau.
Quá trình lao xuống thế giới vật chất không
những biến những nguyên tố này thành vật chất mà còn pha trộn chúng hoàn toàn.
Các tác động tương hỗ trở nên hỗn loạn, phá vỡ trật tự và xé tan tính chất đẳng
cấp. Điều này thiết lập nên một sự vô tổ chức, hỗn loạn, dang dở, trơ trẽn, vô
luật lệ, nhiễu nhương: cái ngày nay người ta gọi là vật chất, là materia
Vật chất có hai nghĩa.
Ý nghĩa thứ nhất: đây là thiên nhiên cổ đầu
tiên, nhưng đã bị rẻ rúng vùi trong cát bụi, trở nên nặng nề, tăm tối và đứng
trên bờ diệt vong trực tiếp. Còn ý nghĩa thứ hai: thực ra trong thiên nhiên vật
chất, toàn bộ thế giới tinh thần cổ vẫn sống một cách tiềm ẩn.
Ý nghĩa thứ nhất xám xịt và bị nguyền rủa,
nặng nề và tiêu cực; còn ý nghĩa thứ hai, đây là terra sancta, materia benedicta,
Trái Đất Thiêng, Vật chất May mắn.
Con người không chỉ từ vật chất, trong vật
chất, vì vật chất mà sống. Con người bị buộc một cách định mệnh và không thể
thay đổi vào vật chất. Từ vật chất con người không thể thoát ra và bước ra
khỏi, chỉ có một cách duy nhất: trong hình hài tâm linh hóa, con người mang nó
quay trở lại nơi ban đầu, nơi từ đó con người rơi xuống cùng nó.
Bởi vậy con người cần nhận thức về thứ vật
chất này. Con người cần biết, những nguyên tố này có ý nghĩa gì, chúng mang
những ý nghĩa cổ xưa và đầu tiên là gì, vị trí đầu tiên của chúng ở đâu. Cần
phải biết vàng là gì, bạc, đồng, chì, kẽm, bạch kim là gì, lưu huỳnh, a sen,
thủy ngân là gì. Cần nhận biết những nguyên tố này bị tăm tối, nặng nề hóa,
trong hình hài phạm tội chúng trở nên bất lực, nặng nề và đen tối như thế nào.
Bởi về mặt nguồn gốc chúng từng là những bộ phận sáng tạo của thế giới tinh
thần.
Nhưng nhận thức này khó khăn khó lường. „ Con
người đã bị vật chất hóa- Al Dzsabir nói- khi rơi
vào tội lỗi và bị đuổi ra khỏi thiên đường, nó cũng đánh mất luôn tri thức về
thuật luyện vàng tinh thần của nó.”
Còn Böhme nói như sau: „Tạo Hóa
dựng nên con người để trở thành ông chủ của các nguyên tố, và các nguyên tố phải
phục vụ con người; nhưng con người lại trở thành nô lệ và đầy tớ cho các nguyên
tố. Giờ đây con người đi tìm vàng, nhưng chỉ thấy đất.”
Nhưng thiên nhiên chỉ đường cho con người. Và
cái đầu tiên của bảng chỉ đường này, như thuật luyện vàng cho biết: pha lê. Pha
lê là đẳng cấp cổ xuất hiện ở hình hài tuyệt đối, đấy là sự phù hợp với đẳng
cấp cổ, khi trong đó các nguyên tố mang nguồn gốc của một thế giới tinh thần.
Trong pha lê xuất hiện thiên nhiên cổ linh thiêng của các nguyên tố. Pha lê cho
con người biết cái gì là bản chất và thực thể của nguyên tố.
Xuất phát từ con đường này, nhân loại cổ tìm
thấy ý nghĩa, sự tương quan và trật tự giá trị của các nguyên tố.
Đấy là nguyên tố học của thuật luyện vàng.
3.
Sự nhận thức về các nguyên tố trong thuật
luyện vàng chỉ là công cụ của hoạt động. Bản thân thuật luyện vàng là một hiện
thực. Người ta gọi: mortificatio là sự teo dần, ngót
dần, solutio
là tan ra, animatio
là sự hưng phấn, fixatio là sự đông đặc, cứng rắn
lại, perfectio
là sự hoàn thiện hóa. Mục đích của hoạt động này là tinh thần hóa, linh thiêng
hóa vật chất (prima matéria).
Thuật luyện vàng không là gì khác, chính là sự
bí ẩn của asa. Là tia lửa nhỏ nhoi duy nhất trong con người còn sót lại từ thực
thể thượng đế cổ đầu tiên, sau khi con người rơi xuống thế gian vật chất, và
đây cũng là hạt mầm vô cùng bé nhỏ duy nhất còn sót lại từ nguyên tố cổ.
’’Thuật luyện vàng chính hiệu bắt đầu trong
con người, tiếp diễn trong vật chất và hoàn thành trong con người.”- Böhme
đã nói.
Thuật luyện vàng chân chính là tia lửa trong
con người bắt đầu tác động đến những hạt mầm chứa trong các nguyên tố, giải
phóng chúng, chuyển hóa và nâng chúng lên. Những nhân tố được giải phóng quay
trở lại tác động vào con người và lúc đó nâng con người lên một cấp độ cao hơn.
Con người một lần nữa lại tác động vào vật
chất, và vật chất tác động trở lại con người, cứ như vậy tiếp tục: thánh thiện
hóa lẫn nhau, tinh tế hóa, trong sạch hóa, chuyển hóa, hưng phấn hóa và đông
đặc hóa lẫn nhau. Nơi nào vật chất mềm, cần cứng rắn hóa, nơi nào vật chất
cứng, cần làm nóng chảy. Vật chất luôn luôn vẫn là vật chất, nhưng trong ý
nghĩa và tầm quan trọng của nó luôn luôn mang ý nghĩa và tầm quan trọng tinh
thần.
Bởi vì sau cùng, vật chất và nguyên tố không
nằm chết cứng ở các mỏ, các dãy núi mà là các bộ phận sáng tạo tích cực ra thế
gian, hay nói cách khác, là thứ tạo dựng nên các dãy núi, dòng sông, thức ăn,
các công cụ, các vì sao và con người.
Nguyên tố đã được tinh khiết hóa và thiêng
linh hóa không biến mất khỏi thế gian, chúng tụ lại từ một nơi vô hình và tỏa
tác động. Chúng phản chiếu: sưởi ấm, soi sáng, tinh lọc. Nguyên tố đã được tinh
khiết hóa biến thành asa-điều thiện, thành bản thể thiên đường hóa, xuất hiện
trên trái đất, trước hết ngay trong con người, nhưng không như một niềm hạnh
phúc và cảm hứng cá nhân mà như sự hiện diện của sự sống thời hoàng kim.
Asa mang thế gian lại gần trạng thái cổ, và
không là gì khác ngoài trạng thái cuối cùng. Thuật luyện vàng phân biệt trái
đất vật chất, con rồng (prima matéria) với trái đất thiên đường (ultima
matéria). Tất cả các hành động, tư tưởng, ngôn từ mang tính chất luyện vàng đều
nâng trái đất lên, không nhiều thì ít. Hành động, tư tưởng, ngôn từ càng nâng
cao nhiều càng có tác dụng lớn, càng xuất hiện nhiều asa của trái đất, và càng
biến nhiều phần của trái đất thành vàng.
Nhưng mục đích giờ đây không là sự giới thiệu
toàn bộ hoạt động của thuật luyện vàng. Có thể đọc những cuốn sách về điều này
như sách của Al Dzsabir, Paracelsus, Böhme, Paspualis, Saint-Martin, về con
người như về Hermes Trismegistos, nhất là Tabula Smaragdina. Và một ví dụ duy
nhất nói về tính chất hiện thực của thuật luyện vàng. Đấy là ví dụ: cái nóng
mang tính chất luyện vàng.
Đây không là cái nóng của nhiệt độ vật lý, mà
cũng của vật lý, của sinh lý học, của vũ trụ, của thiên thể; nhiệt độ là tính
chất của sáng tạo đầu tiên, tính chất tinh thần hóa, là thứ mà ai cũng hiểu
ngay khi nghĩ đến, không cần theo nghĩa bóng, mà theo nghĩa đen trực tiếp, ví
dụ một cái nhìn ấm áp, một lời đầm ấm, một cử chỉ thân thiện, một giọng nói ấm
áp, một cảm giác ấm áp, một màu sắc ấm áp, một cảnh vật ấm áp, một con người,
một hình ảnh, một mối quan hệ, một câu nguyện cầu.
Tiếng Ấn là radzsasz, tổ ấm của một hoạt động
say mê, giống như lưu huỳnh của thuật luyện vàng. Là nhiệt độ để biến đổi thế
gian thành vàng, hay để tìm ra đá quý của các nhà Thông Thái, tìm ra công cụ để
biến đổi thế gian thành thiên đường, không thể khác.
Ở Ai cập người ta cho rằng, nếu một người tạo
dựng được száhu- một cơ thể bất tử- tất nhiên không phải cơ thể của cái TÔI cá
nhân con người, mà là cơ thể của nhân loại, của toàn bộ trái đất và thiên
nhiên- trước hết cần nhiệt độ. Cơ thể con người giữ gìn bản chất vàng thiêng
linh của nguồn gốc.Những kẻ theo thuật luyện vàng luôn luôn nhấn mạnh, cơ thể
con người cũng từ một bản thể mà ra, bản thể trong suốt, rạng rỡ, là đá pha lê
quý của sự Thông Thái.
Một tác giả khác viết: „ Trong
cơ thể con người chứa một cái gì đó đã từng có ngay từ buổi ban đầu, nhưng nó
đã đánh mất từ đất.” Đá quý của sự Thông thái là bản thể mang tính
chất thiên đường. Là asa-điều thiện. Tất nhiên một lần nữa không nói về cơ thể
của cái TÔI cá nhân, mà nói về cơ thể phổ quát và vĩnh cửu của nhân loại.
’’ Mi hãy tách lửa từ đất- Tabula
Smaragdina nói- hãy tách tinh tế khỏi nặng nề, một cách thận
trọng, với sự say mê lớn lao.” Công cụ của việc lựa chọn: nhiệt độ.
Và nếu giờ đây ta nói về việc sử dụng nhiệt độ, không thể không nói đến một
phương pháp sử dụng nhiệt độ một cách hoàn hảo nhất. Phương pháp đó là:
tumo-nội nhiệt.
Tu mo là một từ Tây tạng. Có nghĩa: cái nóng
của linh hồn bên trong. Nguồn nóng của cơ thể vật lý con người theo tumo Tây
tạng không phải da thịt, máu, hay bất kỳ một bộ phận khác của đời sống. Khi
thực thể sống chết, cái nóng rời khỏi nó. Như theo kinh Veda, cái nóng quay lại
tim và bay đi từ đó. Bởi vậy cái xác nguội lạnh dần.
Nguồn của cái nóng có tên là” cơ thể trung
chuyển”- cơ thể thiên thể. Những kẻ theo thuật luyện vàng đặt tên nó là cái bếp
lò hoặc lò sưởi. Cơ thể thiên thể mang cái nóng vào con người và đời sống.
Chiêm tinh học gọi cái nóng này là sao Mars (sao Hỏa), là lưu huỳnh của thuật
luyện vàng. Nếu ai muốn biết rõ hơn về loại cơ thể này nên đọc Swedenborg, một
tác giả mà trực giác tâm linh của ông trong lĩnh vực này không thể lầm lẫn
được.
Yoga-tumo Tây tạng là sự giải phóng của sức
nóng thiên thể, và sự tan hòa vào lửa thiên thể của sinh linh người „Có thể
tách tinh tế và nặng nề ra khỏi nhau”.
Cơ thể vật lý tan chảy trong sức nóng thiên
thể, nhưng hệ thần kinh, các kỷ niệm, các ký ức, trí tưởng tượng cũng thế;
Trong hậu quả của sự đốt cháy này các vật chất tầm thường bốc cháy và bốc hơi,
cái còn lại trong con người luôn luôn trong sạch và càng trong sạch hơn: vàng.
Kẻ khổ hành bằng những thực hành cần thiết
nâng cao dần nhiệt độ thiên thể, để toàn thân tắm trong sự tỏa nhiệt phi vật
chất. Sự tỏa nhiệt này người khổ hạnh có thể dẫn lan truyền xuống khắp trái
đất, thậm chí đến toàn bộ thế giới vật chất. Người châu Âu chỉ cho tumo là một
động tác yoga được những người sống trong cái băng giá mùa đông sử dụng trong
các dãy núi cao, để đừng bị đóng băng. Nhưng thực ra đấy là một hoạt động luyện
vàng được sử dụng một cách có ý thức để” tách tinh túy ra khỏi cái nặng nề”,
không chỉ trong cái TÔI cá nhân của con người, mà thông qua cái TÔI cá nhân làm
tăng thêm bản thể mang tính thiên đường trên thế gian.
Muộn hơn, nhất là trong thời trung cổ, khi lò
sưởi và lò nướng còn làm bằng gạch, tumo được sử dụng ngược lại: người ta làm
nhiệt độ tăng lên trong thế giới vật chất và để vàng chảy ra từ đó. Từ quan
điểm làm tăng asa trên thế gian bằng bất cứ phương pháp nào, hai cách này không
khác nhau. Mục đích là một: làm tan chảy vàng. Ý nghĩa tâm lý của tumo Tây tạng
và của hóa học vật chất của thuật giả kim thời trung cổ như nhau: bằng sự giải
phóng nhiệt độ biến thế gian một lần nữa thành frasa, thành vàng.
4.
Phần thứ ba của thuật luyện vàng dạy về vàng
và đá quý của sự Thông thái. Vàng không là gì khác, ngoài là một vật chất cổ
đầu tiên của tạo hóa. Thế giới đầu tiên này là thế giới cổ. Sự tạo dựng đầu
tiên của Tạo Hóa từ vàng. Không phải vàng vật lý. Vàng vật lý không là gì khác,
ngoài hình dạng duy vật của sự tạo dựng cổ và đầu tiên. Sự tạo dựng đó như thế
nào, mọi người đều hiểu, nếu nghĩ đến sự rạng ngời lặng câm, ấm áp, bình thản
vĩnh cửu của vàng, nghĩ đến vật an bình nặng nề đặc thù, thứ mềm mại và chín
muồi như dầu, như mật ngọt, như nắng mặt trời mùa hè, hay như vàng.
Đá của sự Thông thái là tri thức phổ quát và
vĩnh cửu, giữ gìn bí mật của thuật giả kim, thuật làm vàng. Nhưng không chỉ là
tri thức, mà có thể cũng là vật chất, bởi vì trong thế giới tự nhiên cũng cần có
thứ vật chất phù hợp chính xác với tri thức phổ quát trong thế giới tinh thần.
Đá của sự Thông thái là thứ vật chất mà sự
tiếp xúc với nó làm các nguyên tố quay trở lại vị trí cội nguồn của chúng, trật
tự cội nguồn dựng lại và thế giới cổ đầu tiên quay lại. Đá của sự Thông thái
còn là thuốc trường sinh, là sức khỏe, là đời sống, là công cụ phép thuật vĩnh
cửu.
Mục đích của thuật luyện vàng là làm ra vàng
và tìm ra đá quý của sự Thông thái. Hoạt động này có thể là bên ngoài hoặc bên
trong; hoạt động bên trong luôn luôn tác động ra bên ngoài và mang bên ngoài
theo nó; hoạt động bên ngoài tác động đến bên trong và nâng nó lên.
Hai loại hoạt động này phủ lên nhau, bổ sung
cho nhau, giúp đỡ lẫn nhau, bên ngoài và bên trong quấn quýt với nhau. Bởi vì
trong thời kỳ tạo dựng đầu tiên thế giới bên ngoài và thế giới bên trong không
đứng riêng: nó là một, như thiên nhiên và tinh thần, thể xác và linh hồn, đời
sống và sự sống là một.
5.
Có một ví dụ về thuật luyện vàng khiến con
người hiểu kỹ hơn: trong thời cổ cái gì là ý nghĩa, mục đích và tính chất của
hoạt động của con người, không thể tìm ra. Con người lịch sử gọi sự hoạt động
là lao động; đấy là hành động mà mục đích của nó là duy trì, nuôi lớn, là quyền
lực, của cải, sự vinh quang của cái TÔI. Thế là trong thời lịch sử canh tác đất
đai, buôn bán, binh nghiệp,cai trị nhà nước, giáo dục, học tập, dạy học đều là
lao động, thế là lao động trở thành tất cả các hoạt động, ngoại trừ nghệ thuật.
Hoạt động nghệ thuật là thứ duy nhất giữ gìn
và giữ lại ý nghĩa cội nguồn của hoạt động: là sự phục vụ tinh thần để thế gian
đẹp hơn. Đứng về mặt cội nguồn mọi lao động đều là sự canh tác, không bao giờ
để kiếm sống, càng ít ý nghĩa thua thắng cá nhân. Nếu từ sự hoạt động hành vi
giáo dục, khía cạnh linh thiêng hóa bị mất, lúc đó ý nghĩa của sự hoạt động
cũng mất. Bởi vậy, lao động cũng trở nên vô nghĩa.
Sự hoạt động trong thời cổ là một sự giáo dục,
ngày nay chỉ thấy ở những con người thiên tài, hành động một cách sùng kính,
say mê, nhấn mạnh khía cạnh siêu hình, hành động một cách sống-chết cái họ làm,
họ biết rằng kết quả của hành động ấy không phải của họ mà để góp phần nâng cao
và linh thiêng hóa thế gian. Để tăng thêm asa-điều thiện. Để thay đổi hoàn toàn
cả thế gian.Trong thời cổ hoạt động, mà con người lịch sử đã hạn chế chỉ dành
cho loài người, mang tính tổng quát. Lúc đó tất cả mọi người ở mức độ trong sự
sống thiên tài như người nghệ sĩ ngày nay.
Hoạt động chỉ như một sự giáo dục mới có ý
nghĩa: chỉ và duy nhất như một sự sùng bái. Tất cả đã từng là sự sùng bái, sùng
kính, cái giờ đây là lao động: canh tác đất đai, buôn bán, cai trị nhà
nước,binh nghiệp. Sự sùng bái là giáo dục, là trình độ, là mức độ của sự sống
cao cấp, và trật tự của các công cụ và các vật thể tạo dựng ra sự duy trì mức
độ này: đấy là nền tảng của văn hóa.
Cảm xúc của mọi loại hoạt động là: làm cho thế
gian đẹp hơn, đúng hơn, cao thượng hơn, trù phú hơn. Làm tăng thêm asa-điều
thiện. Linh thiêng hóa thiên nhiên. Quay lại nâng các bông hoa cao lên từ nơi
con người dẫm đạp chúng xuống: thời hoàng kim.
Thuật luyện vàng là tri thức cổ, là ân sủng
trên thế gian, tiếng Hy lạp là kharisz, tiếng Latin là gratia, dạy về sự nâng
cao một cách có ý thức. Trên thế gian đấy là vàng bị chôn dấu và pha trộn, hay
còn gọi là asa. Thuật luyện vàng phục hồi sự sống vàng, nâng nó lên, tẩy sạch,
làm tan chảy và làm nó đóng cứng lại. Thuật luyện vàng là sự canh tác và là sự
sùng bái, mà truyền thuyết Ấn độ gọi là sự khuấy đảo biển sữa. Đây là hành động
cổ mà các vị thần đã hoàn thành: sự khuấy đảo đại dương sữa để lựa ra từ đấy asa,
vàng, sự sống trong sạch. Sự canh tác cổ này là tình cảm nền tảng đứng sau tất
cả mọi hành động.
Sự sùng bái có thể nhận biết từ chỗ: cái gì
cần tìm kiếm, cái đó ở trong hiện tại.Trong sự sùng bái, vàng xuất hiện và trở
thành hiện thực. Biến thành hiện thực ở điểm bé nhỏ duy nhất của thế gian:
nhưng không thể thu hồi lại và vĩnh cửu. Dấu hiệu để nhận biết sự sùng bái là
nó biết về nó: hành động này trong khoảnh khắc này, ở vị trí này, bằng phương
pháp này, ở mọi thời điểm vì mọi người và nhân danh tất cả con người xảy ra do
tôi.
Mọi hành động hoặc là trả lời cho nhân sư
Sfinx, hoặc không; trong mọi hành động cả nhân loại hành động; mọi hành động
hoặc nâng thế gian lên, hoặc dấn chìm xuống, hoặc mang lại ánh sáng, hoặc bóng
tối. Bởi vì:” cũng đủ nếu chỉ một kẻ duy nhất trả lời cho Sfinx”. Và nếu một
người trong dãy núi cô đơn, trong một hang đá biệt lập nghĩ đến một sự thật, sự
thật đó không bao giờ có thể rời xa trái đất nữa.
Sự sùng bái là một hành động, khi con người cá
nhân nhận thức ra rằng trong nó con người phổ quát tồn tại và hành động, và con
người phổ quát này chỉ có một nhiệm vụ duy nhất: quay trở lại với sự sống hoàng
kim. Mọi nhát cuốc, mọi lần hạ bút, mọi lời giáo huấn, mọi sự điều chỉnh nhà
nước, mọi công việc bếp núc, mọi cử chỉ ngắt hoa đều là asa hoặc không phải:
hoặc là sự sùng bái, hoặc là lao động, hoặc là sự say mê đảm nhận một cách có ý
thức, hoặc là sự hầu hạ nô lệ, hoặc cùng với hành động này làm tăng trưởng thế
gian trù phú, hoặc tiêu hủy mọi của cải quý giá của thế gian.
Sự dâng hiến đầu tiên là hành động -
Baader nói.
Và sự dâng hiến sẽ biến thành thiên thần giám
hộ cho con người. Sự dâng hiến giám hộ cho con người và cho các dân tộc, cho
thế gian:” tình yêu thương bàng bạc.” Nền văn hóa lớn bắt nguồn từ tình yêu
thương này:” Từ tình yêu thương hướng về thiên nhiên, không phải từ những hành
động lợi ích ích kỷ, thiển cận, tính toán.”
Sự sùng bái đưa cho con người những đo lường
không thể làm khác mà hành động có thể đo được.” Biết bao lần con người đo những hành động của
mình cạnh ánh sáng, là phước lành của thế gian tăng lên.”Zarathustra
nói. Còn Ahura Mazda nói với con người như sau:” Ta nhìn thấy các ngươi tan ra trong ta, còn
các ngươi nhìn thấy ta trong hành động của các ngươi.” Đấy là những
lời của những kẻ theo thuật luyện vàng.
Con người sống một cách hòa tan vào Thượng đế,
như muối trong biển; Tính chất Thượng đế trong con người là hành động và sức
mạnh tạo dựng, như lửa ẩn náu trong lưu huỳnh, như vị trong muối, như sự sống
thiên đường đã chìm trong vàng.
6.
Điều khó nhất trên thế gian không phải là tạo
dựng nên một nền văn hóa vật thể, mà là nâng cấp độ cảm hứng chung. Cần hướng
hoạt động không phải tới sự sáng tạo vật thể mà đến sự nâng cao cấp độ sự sống
chung.
Nếu chỉ liên quan đến sáng tạo vật thể, lúc đó
văn hóa, kết quả của hoạt động này sẽ chỉ là cái bên ngoài và mang tính vật
thể; trong trường hợp này hoạt động chỉ là lao động; lúc đó hoạt động chỉ là
cái TÔI cá nhân và mục đích là sự nuôi sống cái TÔI, là của cải và quyền lực.
Nếu hoạt động hướng tới việc nâng cấp sự sống
chung, lúc đó kết quả của nó mang tính phổ quát; lúc đó hoạt động là văn hóa;
cá nhân hoạt động là con người phổ quát; mục đích là điều chỉnh lại vị trí cội
nguồn của thế gian.
Thuật luyện vàng là một hoạt động văn hóa như
vậy: kẻ theo thuật luyện vàng là con người phổ quát, không muốn sáng tạo một
nền văn hóa vật thể, mà muốn nâng cấp niềm hứng khởi, sự tính táo minh mẫn,
thanh bình, lương thiện chung. Niềm hứng khởi chung là cái mà từ ASA của Iran
hướng tới, cái mà những kẻ theo thuật luyện vàng gọi là vàng, cái mà các truyền
thuyết khác nhau gọi là szatja-juga, hay thiên đường, hoặc
Vườn Địa Đàng, hoặc Elysion.
Đây là niềm cảm hứng chung con người cần phải
tạo dựng. Khi những khả năng chứa đựng trong hoạt động của họ, trong sức lực
của họ, trong năng lực sáng tạo, trong tri thức của họ chỉ được sử dụng cho lợi
ích riêng: duy trì bản thân, tăng trưởng cái TÔI, đã trở thành một kết quả của
sự nhầm lẫn tận cùng, khiến con người kinh nghiệm được những hậu quả cay đắng.
Sự hoạt động biết thành mục đích của cái TÔI,
tính chất siêu việt của hoạt động bị đánh mất. Nó không còn trở thành phổ quát,
sự sùng bái chấm dứt. Thuật luyện vàng dạy con người: sức mạnh sáng tạo, tri
thức, sự hoạt động không để dùng cho việc duy trì bản thân và tăng của cải vật
chất, để tạo dựng nền văn hóa vật thể cũng không phải, mà duy nhất chỉ để, như
người Iran đã nói: tạo ra vàng.
Cái mà con người làm trong thế giới vật chất,
không là gì khác ngoài việc quấy biển sữa, cùng với các vị thần, con người hoạt
động không nghỉ, trong từng khoảnh khắc. Đấy là sự hoạt động linh thiêng. Đấy
là sự sùng bái. Đấy là ý nghĩa của canh tác đất đai, buôn bán, binh nghiệp,
giáo dục, dạy dỗ, nấu nướng. Đấy là thuật luyện vàng đích thực.
’’ Cái mà con người đánh mất từ bên trong-
Saint-Martin nói-cần lấy lại bằng hoạt động bên ngoài.”
Cái bên trong bị mất, là hòa bình, đời sống
vĩnh cửu, sự ngự trị thế gian và sự rạng ngời của ý nghĩa thượng đế; những điều
này cần phải lấy lại bằng những hoạt động trong thế gian vật chất. Mọi hoạt
động dù chỉ lấy lại được một chút rất ít ỏi từ niềm hứng khởi cổ xưa cũng đủ
nâng cao niềm hứng khởi chung của nhân loại. Đây là hành động trả lời cho nhân
sư Sfinx, là sự thật nghĩ đến trong hang đá, là việc đan sọt từ những cành liễu
bên sông, là canh tác đất, làm vườn, chiến đấu, ca hát, giáo dục, nấu nướng,
may quần áo và cai trị nhà nước.
Nếu là hành động như thế đấy là sự sùng bái
asa. Nếu hoạt động chỉ tạo ra vật thể, tạo ra máy móc, nuôi sống bản thân, nếu
chỉ để thu thập của cải, lúc đó không phải sự sùng bái, chẳng phải asa, không
nâng thế gian lên niềm hứng khởi chung, và bởi vậy hoạt động trống rỗng, vô
nghĩa,vô ích: không làm ra vàng. Chỉ là lao động.
Mục đích của văn hóa trong thời cổ: nâng cao
niềm hứng khởi chung của nhân loại; và công cụ của văn hóa: hoạt động mang tính
chất sùng bái trên mọi lĩnh vực của đời sống con người. Thuật luyện vàng dạy
những điều như vậy.
( Budapest. 2012-08-22)