Bùi Văn Nam Sơn
Nguồn: SGTT
Trở lại với quan niệm về con người, ta
không thể không nhắc đến René Descartes (1596 – 1650) và Immanuel Kant (1724 –
1804). Ông trước được tôn vinh là cha đẻ của triết học hiện đại. Ông sau cũng
là một đại triết gia, đồng thời là người thực sự khai sinh môn nhân học, tức
khoa học về con người, theo nghĩa hiện đại.“Cỗ máy người”?
Ta
thường biết rằng Descartes phân chia mọi thứ trên đời thành hai loại bản thể: bản
thể vật chất có quảng tính và bản thể tư duy, vì thế được gọi là thuyết nhị
nguyên. Vậy, sự kết hợp hai loại bản thể này nơi con người như thế nào? Trước hết,
nhờ xét thân thể con người như là một bản thể vật chất, Descartes đã mở đường
cho việc nghiên cứu khách quan về cơ thể con người và của mọi sinh vật nói
chung. Trước đây, quan niệm thân thể con người là cái gì linh thiêng, bất khả
xúc phạm có ưu điểm của nó, nhưng cũng đã cản trở không ít cho sự phát triển của
các bộ môn như cơ thể học, sinh lý học và nhất là khoa giải phẫu. Nhiều câu
chuyện ly kỳ được truyền tụng về nhiều nhà y học và thầy thuốc trong thế giới
Arập (lúc đó tiến bộ hơn châu Âu nhiều!), vì yêu khoa học và do nhu cầu chữa trị,
đã phải lén lút mổ tử thi dù biết sẽ bị trừng phạt nặng nề theo pháp luật. Với
quan niệm mới mẻ của Descartes, con đường đã rộng mở! Descartes đã có công lao
rất lớn, còn việc khắc phục sự cực đoan để hướng đến quan niệm chẩn đoán và điều
trị bệnh nhân một cách toàn diện (tâm thể kết hợp) như ngày nay là câu chuyện
khác!
Thế còn bản thể tư duy thì sao? Phải chăng con người chỉ là một khối
xương thịt – như một cỗ máy tự động – nhưng biết tư duy như có thêm một… phụ
tùng? Không, người đã cực đoan hoá và chủ trương xoá bỏ thuyết nhị nguyên của
Descartes để xem con người chỉ đơn thuần là cỗ máy biết tư duy chính là La
Mettri (1709 – 1751) trong tác phẩm L’Homme machine (Con người – cỗ máy)
(1748). Quan niệm duy vật cơ giới của La Mettri không nhận ra dụng ý tinh tế
trong thuyết nhị nguyên của Descartes. Theo Descartes, con người khác với cỗ
máy tự động ở chỗ có năng lực tư duy để, thông qua ngôn ngữ, có thể trao đổi với
người khác. Nhờ tính chất phổ quát của lý tính, con người có thể vượt ra khỏi
những hoàn cảnh nhất định, biểu lộ suy nghĩ của mình về sự vật và có sự tự do lựa
chọn. Chỉ trong tính chất ấy, con người mới có thể chịu trách nhiệm cũng như có
thể bị quy trách nhiệm về hành động của mình. Con người là tự do! Ngược lại,
thú vật và những cỗ máy tự động thì dửng dưng và trung lập về luân lý, đạo đức.
Về mặt lịch sử tư tưởng, chính từ học thuyết của Descartes, ta mới hiểu được lý
do hình thành các loại chủ trương khác nhau về con người từ thế kỷ 18 trở đi với
nào là thuyết duy linh, thuyết duy tâm, thuyết duy vật, thuyết duy vật cơ giới
v.v…
Nhân học: khoa học về tự do
Từ “nhân học” (anthropology) được Magnus Hundt, người Đức, sử dụng lần đầu
tiên vào năm 1501, sau đó là Otto Casmann vào năm 1596. Vào thế kỷ 18, trong
khi J. F. Blumenbach (1752 – 1840) sáng lập môn nhân học theo hướng khoa học tự
nhiên, thì Immanuel Kant là người khai sinh môn nhân học triết học với bài giảng
đầu tiên năm 1772 về “Các chủng tộc khác nhau của loài người”. Đến năm 1798, bộ
giáo trình đồ sộ của ông về “Nhân học trong giác độ thực tiễn” mới thực sự là
công trình vạch thời đại.
Ngay
trong Lời tựa, rõ ràng theo chân Descartes, Kant phân biệt giữa nhân học sinh
lý như “những gì thiên nhiên tạo ra từ con người” với nhân học thực tiễn như
“những gì con người, với tư cách sinh vật tự do hành động, tự tạo ra hoặc có thể
và phải tạo ra từ chính mình”. Về mặt nhân học sinh lý, đúng theo thuyết bất khả
tri của ông về “vật – tự thân”, Kant không tin rằng ta có thể hiểu biết trọn vẹn
về cơ thể con người, một nhận định mà nền công nghệ sinh học ngày nay đang cố gắng
cải chính! Tuy vậy, bản thân những nghiên cứu phong phú của ông về bản năng,
tính khí, nhân tướng, giới tính, chủng tộc v.v. đã góp phần tích cực cho môn
nhân học sinh lý, nhất là các lĩnh vực tâm lý học xã hội, tâm lý bệnh học…
Đóng góp lớn của Kant là đã nối kết các
chủ đề này với tính cách và vận mệnh triết học của con người với tư cách là
sinh vật luân lý và có lý trí. Con người không phải là sinh vật “thuần lý” như
thánh thần, cũng không phải như cỗ máy tinh vi nhưng vô tình của “trí tuệ nhân
tạo”, trái lại, là sinh vật – tự nhiên có thân xác, hữu tình, với bao dục vọng
và yếu đuối, nên chỉ là sinh vật “có năng lực lý tính” mà thôi. Vì thế, con người
không có cách nào khác hơn là phải biết sử dụng lý trí của mình để “thông qua
nghệ thuật và khoa học, sống chung trong xã hội với những người khác nhằm văn
hoá, văn minh hoá và đạo đức hoá, thoát ra khỏi bản tính thô lậu và xứng đáng
làm người”. Kant đặt câu hỏi: Vậy môn nhân học và môn sư phạm phải làm gì để
phát triển tiềm lực đạo đức để nó không xung đột với bản tính tự nhiên của con
người?
Theo ông, trước hết, nhân học phải dựa trên kinh nghiệm nội tâm. Sau đó,
tiến hành khảo sát cặn kẽ mọi mặt của đời sống con người, rút ra những quy tắc
tuy không thể hoàn toàn chính xác nhưng hữu dụng. Nhân học “từ giác độ thực tiễn”
thực chất là một thứ tâm lý học và xã hội học thường nghiệm nhưng được sắp xếp,
hệ thống hoá và định hướng bằng triết học. Thật thế, nền nhân học ấy, gắn liền
với “nhận thức về con người với tư cách là công dân thế giới”, không thể tiến
hành theo kiểu tiên nghiệm, cũng không bằng thí nghiệm theo kiểu khoa học tự nhiên,
mà phải bằng con đường nghiệm sinh với mọi thông tin có thể có được, từ du khảo,
du ký, tiểu sử, văn hoá, nghệ thuật, lịch sử thế giới… trước khi có cái nhìn thống
quan của triết học.
“Thịt xương là sông núi”?
Những gợi ý của Kant được hậu thế tiếp thu và đánh giá khác nhau, nhưng
dường như ai cũng thâm cảm rằng: thân xác tự nhiên là ranh giới, nói lên sự hữu
hạn của con người, thậm chí “chia biệt người ra từng xứ cô đơn” (Huy Cận),
nhưng chính nó mới làm cho sự tự do của con người được đặt ra một cách bức thiết,
đồng thời được đặt ra trong tình liên đới xã hội giữa những phận người.