Thứ Ba, 25 tháng 9, 2012

LỜI MỜI GỌI ĐẾN SỰ MẬT THIẾT MỚI VỚI ĐỨC KITÔ

Phêrô, Ngài trở thành mục tử như thế nào?


 
Lm. Antôn Bùi Kim Phong
 
Metanoia trong từ ngữ của thần học Tân Ước - trong Cựu Ước với động từ shuv: trở về, quay về, hay nacham: thống hối - diễn tả một hành trình hồi tâm, thống hối và hoán cải tận căn. Trong ý nghĩa thời gian, đó là sự dứt khoát với quá khứ, thay đổi trong hiện tại để hướng về một tương lai khác biệt. Nói về tiến trình, đó là một tiến trình vượt qua chính mình, vượt qua lối sống, lối hiểu, cách nghĩ của con người hiện tại về chính mình, về người khác, về thế giới và về chính Thiên Chúa, để có được một phân định mới, xác quyết mới và từ đó có được một dấn thân mới. Tất cả tiến trình nội tâm này đưa con người tới một mục tiêu là sống trọn vẹn hơn và mật thiết hơn trong tình yêu với chính Đức Kitô, và qua đó đổi mới cách nhìn, cách hiểu, cách cư xử với chính mình và với thế giới chung quanh, tương hợp với cái nhìn của Đức Kitô. Đối với những người được gọi vào thánh chức linh mục, người mục tử của đoàn dân được Chúa trao phó, tiến trình hoán cải (metanoia) đưa đến một dấn thân mới, một sự mật thiết mới trong mối tương quan với vị Mục Tử tốt lành trên hết các vị mục tử là Đức Kitô, là mục tiêu của đời sống mục vụ và thiêng liêng của linh mục. Bài suy niệm này muốn phác họa tiến trình hoán cải ‘thứ hai’[1] của thánh Phêrô - dựa trên những chiêm niệm lectio divina - để gửi đến các cha trong khoá thường huấn 2012  như là chứng từ của tiến trình hoán cải của người mục tử[2].
Hai lời giáo đầu
- Đầu tiên, trước khi đi vào phần suy niệm, chúng ta dừng lại một chút ở hai từ “hoán cải và “ơn gọi’, không phải để định nghĩa, nhưng để làm rõ nghĩa hơn.
Chúng ta gọi là ơn gọi những lôi cuốn, hấp dẫn mà Chúa Thánh Thần tác động, dù trong những trạng huống khác nhau, khi sáng sủa rỏ ràng, lúc mù mờ tăm tối, để chúng ta hiểu được sứ vụ mà Thiên Chúa muốn chúng ta thực hiện trên trần gian này.   Sứ vụ đó luôn là một cách bắt chước Chúa Giêsu, một cách thể hiện sự hiện hữu của Chúa Giêsu trong một khoảnh khắc hay hoàn cảnh nào đó trong lịch sử. Nhưng ơn gọi cũng bao gồm sự lớn lên, sự phát triển thiêng liêng, cho đến khi đạt đến sự trưởng thành Kitô giáo, đạt đến khả năng sống, suy nghĩ, và hành động như Chúa Giêsu, trong một hoàn cảnh cụ thể. Vì thế, ơn gọi luôn mang ý nghĩa kiến tạo và tinh luyện. Ơn gọi luôn kêu mời chúng ta từ bỏ những gì bất ổn và không chân thực, để tiến bước trong hành trình của trật tự và sự thật. Vì thế ơn gọi có một liên hệ mật thiết với hoán cải.
Chúng ta hiểu chữ hoán cải (metanoia), theo nghĩa rộng, là những thay đổi tâm hồn có ý nghĩa và hiệu lực. Sự hoán cải có thể được hiểu theo hai ý nghĩa: hoán cải thiêng liêng và hoán cải đời sống luân lý.
Hoán cải thiêng liêng hệ tại ở việc đặt Thiên Chúa và tình yêu của ngài vào vị trí cao nhất. Việc hoán cải này có thể bắt đầu từ một quan đìểm hay trạng thái thiêng liêng trước đây, là một tình trạng không hoàn toàn thành tâm hay chân thực, không đặt Thiên Chúa và tình yêu của ngài vào vị trí cao nhất, nhưng thay vào đó có thể là truyền thống, thói quen, cách phục vụ, vv… Cho nên cũng cần có việc hoán cải trong phạm vi đời sống thiêng liêng dự định sống theo Tin Mừng; dự định không chưa đủ, cần hoán cải tâm hồn theo gương Chúa Giêsu.
Việc hoán cải luân lý luôn đi liền với việc hoán cải thiêng liêng, nó hệ tại ở việc luôn đặt sự thật và sự thiện vào vị trí cao nhất, và đặt những lợi ích riêng tư, những đìều hữu ích, và những bù trừ, vào hàng thứ yếu. Việc hoán cải thiêng liêng, việc đặt Thiên Chúa vào vị trí cao nhất, luôn giả định sự hoán cải luân lý và mọi hoán cải luân lý đều kêu mời chúng ta thanh luyện tâm hồn hướng về sự hoán cải thiêng liêng chân chính. Vì vậy, luôn có liên hệ hỗ tương giữa hai thực tại này.
Qua đó, chúng ta cũng thấy việc hoán cải và ơn gọi cũng hỗ tương với nhau chặc chẻ: qua ơn gọi chúng ta biết phương thế cụ thể của mỗi người để bắt chước Đức Kitô trong hoàn cảnh lịch sử hiện tại, và qua việc hoán cải biến đổi tâm hồn để có thể tự do bắt chước Đức Kitô và tuân theo những linh hứng của ngài.
 Chúng ta thường xuyên dùng những từ ngữ này để phác họa hành trình ơn gọi và hoán cải của thánh Phêrô, một hành trình ơn gọi đưa đến việc hoán cải nội tâm đích thực: đưa đến việc bước ra khỏi, vượt khỏi những lợi ích riêng tư, những cách thế riêng tư để nhìn sự vật, để có thể tuân theo và tương hợp với những lợi ích của Thiên Chúa; và dẫn đến việc nhận thức đúng đắn hơn về ý muốn của ngài.
- Tiếp đến là lời giáo đầu thứ hai. Trong khi dõi theo hành trình của Phêrô, bài suy niệm này dừng lại ở điều chúng ta có thể gọi là ‘ơn gọi lần thứ hai’. Hay có thể gọi là ‘sự hoán cải lần thứ hai’. Những lời dạy của thánh tông đồ thật hữu ích cho chúng ta, vì có lẽ đối với ngài những giai đoạn này là đau khổ và thương tổn hơn, và vì thế nó trở nên dấu hiệu, biểu tượng, kiểu mẫu, để chúng ta nhớ lại khi những hoàn cảnh tương tự xảy đến cho chúng ta.
Mỗi người muốn trở thành môn đệ đích thực và kiên trì trên con đường đi theo Chúa, mỗi ơn gọi, một cách nào đó đều cảm nghiệm trong đời sống mình những bước ngoặc, là bước khai mở những chân trời mới và thường là qua những giai đoạn khủng hoảng - nói theo khoa tâm lý học, có thể được ví như giai đoạn được gọi là khủng hoảng của tuổi bốn mươi -. Và rồi sự biến đổi đến trong ta, nó có thể được gọi dưới nhiều tên: sư hoán cải lần thứ hai, ơn gọi lần thứ hai, hay những tên khác. Chắc chắn có một giai đoạn như thế -dù dưới tên gọi nào - và chúng ta cùng suy niệm giai đoạn này của thánh Phêrô.
Câu hỏi của chúng ta là ơn gọi hay việc hoán cải lần thứ hai của thánh Phêrô xảy ra cho ngài thế nào? Ngài sẽ trả lời cho chúng ta qua hai bước tiếp nhau: qua hai lần cảnh báo, hai lần  xây dựng  và một kết luận. Chúng ta trải nghiệm những khoảnh khắc này qua việc đọc (lectio) và suy niệm (meditatio) để tự hỏi xem ơn gọi lần thứ hai là gì, có xãy ra tương tự như thế cho chúng ta không, và chúng ta rút ra từ đó những kết quả nào?

Một đức tin mỏng giòn

Chúng ta bắt đầu với hai lần cảnh báo làm cho Phêrô thức tỉnh.
- Lần cảnh báo thứ nhất xảy ra khi Phêrô đã quyết định theo Thầy, và đã sống đời môn đệ. Chúng ta đọc trình thuật này ở Tin Mừng Mát-thêu chương 14. Sau phép lạ hoá bánh ra nhiều, Chúa đi lên núi một mình để cầu nguyện, trong khi các môn đệ lên thuyền để sang bờ bên kia trước. “Còn chiếc thuyền đã ra biển được vài dặm, bị sóng đánh ngược gió. Vào khoảng canh tư, Ngài đi trên mặt biển mà đến với họ. Thấy Ngài đi trên mặt biển, các ông hoảng hốt bảo nhau: “Ma đấy”, và sợ hãi la lên. Đức Giê-su liền bảo các ông: "Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ!" Ông Phê-rô liền thưa với Người: "Thưa Ngài, nếu quả là Ngài, thì xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến với Ngài." Đức Giê-su bảo ông: "Cứ đến! " Ông Phê-rô từ thuyền bước xuống, đi trên mặt nước, và đến với Đức Giê-su. Nhưng thấy gió thổi thì ông đâm sợ, và khi bắt đầu chìm, ông la lên: "Thưa Ngài, xin cứu con với! "Đức Giê-su liền đưa tay nắm lấy ông và nói: "Người đâu mà kém tin vậy! Sao lại hoài nghi? "Khi thầy trò đã lên thuyền, thì gió lặng ngay (cc. 24-32).
“Người đâu mà kém tin”, những từ ngữ quá nặng, vì Phêrô sẽ là nền tảng đức tin cho Giáo hội, cho chính niềm tin của chúng ta.
Ông bị trách móc vì  kém tin, để nhắc nhớ ông về thực tại là ông không tin, rụt rè, hoài nghi, kinh hãi và khiếp sợ. Cũng như tất cả chúng ta, Phêrô phải học biết là đức tin là một ân huệ của Thiên Chúa, không phải một sở đắc của chúng ta.
- Lần cảnh báo thứ hai được trình thuật trong Tin Mừng Luca, chương 22,  và cũng được thuật lại trong các Tin Mừng nhất lãm và cả Tin Mừng Gioan (13, 38-38). Ở đây chúng ta đọc trình thuật của Luca.
            Trước hết Phêrô, cũng như thường lệ, được ca tụng, và lần này cùng với các tông đồ khác: "Còn anh em, anh em vẫn một lòng gắn bó với Thầy, giữa những lúc Thầy gặp thử thách gian nan” (c. 28); vì họ là những người trung thành và chung thủy. Nhưng quay sang Simon Phêrô, Ngài thêm: “Si-môn, Si-môn ơi, kìa Xa-tan đã tìm để  sàng anh em như người ta sàng gạo. Nhưng Thầy đã cầu nguyện cho anh để anh khỏi mất lòng tin. Phần anh, một khi đã trở lại, hãy làm cho anh em của anh nên vững mạnh" (cc 31-32).
Phêrô như muốn nói: con hài lòng vì những lời Thầy nói, và những lời đó làm cho con yên lòng, nhưng, cũng như mọi khi, con muốn  thêm: "Lạy Chúa, dầu có phải vào tù hay phải chết với Chúa đi nữa, con cũng sẵn sàng". Một sự chung thủy tuyệt đối và trọn vẹn. Phêrô hết sức thành tâm khi nói thế. Nhưng Chúa Giêsu trả lời: “Này anh Phê-rô, Thầy bảo cho anh biết, hôm nay gà chưa kịp gáy, thì đã ba lần anh chối là không biết Thầy"( c. 34).
Vị tông đồ phải chấp nhận lời cảnh báo mạnh mẽ này, lời này làm cho ông hiểu sự chân thực của ước muốn đi theo Chúa Giêsu của ông, dù đã biểu lộ, nhưng vẫn còn rất mềm yếu, mỏng giòn, chưa thực thâm sâu.
Chúng ta sẽ xét đến việc Phêrô chối ba lần sau khi suy tư về trình thuật chúng ta gọi là lần xây dựng đầu tiên trong tiến trình hoán cải lần hai của thánh Phêrô.

“Các con bảo Thầy là ai?”

Ở đây chúng ta nói về một lần quở trách trở thành bước ngoặc quyết định trong cuộc đời của Phêrô. Câu chuyện xảy ra trong cuộc hành trình về Cêsarê Philíphê, khi thầy trò bỏ Galilêa, hướng về phía bắc, đến tận chân núi Hermon. Đây là một nơi đầy nước, đầy suối, đầy những ao hồ nhỏ, đầy những hang động, nhưng cũng đầy những truyền thống bí nhiệm của dân ngoại. Thầy Giêsu chỉ đi với các môn đệ, và muốn lay chuyển, khích động và làm cho họ tạo cho mình một bước nhảy vọt trong hành trình nội tâm.
Dĩ nhiên, cũng như những lần khác, chính Phêrô là người được thử nghiệm, là người Chúa chọn để kích thích những người khác. Tất cả bắt đầu với một câu hỏi của Chúa Giêsu: “Người ta bảo thầy là ai?”. Câu hỏi này không phải mới, nó đã được hỏi nhiều lần rồi. Các môn đệ đã nghe từ những phép lạ đầu tiên, từ những lần chữa lành đầu tiên. Tin mừng theo thánh Mát-cô đã ghi chú, sau trình thuật về việc làm cho sóng gió im lặng, các môn đệ sợ hãi, kinh khiếp, và bảo nhau rằng: "Vậy người này là ai, mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh?" (4,41).
Dân chúng luôn thắc mắc và đặt câu hỏi, nhưng đến giờ các môn đệ vẫn chưa thoả thuận với nhau về câu trả lời. Có người nói Thầy là một ngôn sứ, một ngôn sứ vĩ đại; như một người được Thiên Chúa sai đến, hay có thể là Đấng được sai đến sau cùng, Đấng Thiên Sai.
 Cho dù có những chuẩn bị này rồi, nhưng đến khi chính Chúa Giêsu đặt câu hỏi này, các môn đệ giật mình ngạc nhiên, hay mắc cở không dám phát biểu, sợ rằng câu trả lời của mình không được Thầy đồng ý. Các môn đệ vẫn còn sợ hãi khi đối diện với sự thật.  Tất cả các ông đều sợ sệt và do dự. 
Phêrô thì sao? Ông được linh hứng nội tâm thúc bách nói lên thay cho anh em, nói lên những lời mà các thánh sử ghi lại mỗi người một cách hơi khác nhau. Thánh Mát-thêu diễn tả phong phú hơn, có thể hơi vượt quá một chút những gì Phêrô đã nói lúc đó (Mc 8,27-30). Phêrô chắc rằng Chúa Giêsu là Đấng Kitô, nên đã mạnh mẽ phát biểu. Có lẽ trong suy nghĩ Phêrô cảm thấy Thầy mình có cái gì đó hơn cả Đấng Thiên Sai, là người có mối tương quan mầu nhiệm và rất mật thiết với Thiên Chúa, nên Phêrô cũng muốn nói lên điều đó, cho dù ông có thể không hiểu thấu đáo những lời mình muốn nói. Sau khi nói xong, chắc Phêrô lặng đi và run rẩy, vì không biết mình nói có đúng không, vì những lời đó rất nghiêm trọng đối với người giữ đạo và luật Do Thái thuần thành.
            Có lẽ lúc đó Chúa Giêsu đã nhìn thâm trầm vào mắt Phêrô, như lần đầu gặp nhau, im lặng hồi lâu rồi mới nói lên tiếng: “Này anh Si-môn con ông Giô-na, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời” (Mt 16, 17).
Phêrô thật hả hê, phấn khởi và mãn nguyện đến tột đỉnh, như thể ở chín tầng mây. Thầy không những công nhận những lời của ông là đúng, mà còn nhấn mạnh là ông đã được Thiên Chúa mạc khải.  Điều đó vượt quá lòng mong ước của Phêrô. Khi nghe Chúa nói thế, ông tràn ngập hạnh phúc: Thiên Chúa thật đáng cho tôi xưng tụng, Ngài đặt Thần Khí của Ngài trong lòng tôi, Ngài dùng tôi để tỏ bày những bí nhiệm của Ngài.
Đó là điều ngoài sức tưởng tượng của Phêrô. Cả các môn đệ khác cũng nhìn Phêrô đầy kinh ngạc về điều kỳ diệu chưa từng nghe thấy này. Và cũng có thể với một chút ganh tị, họ tự hỏi: Làm thế nào mà Phêrô có thể thẩm thấu những điều bí nhiệm của Chúa đến vậy?

Hoán cải để khiêm nhường

Nhưng câu chuyện không dừng ở đây, mà tiếp tục với những diễn biến không lường trước được, với lời quở mắng của Chúa Giêsu. Lời quở mắng chắc đã làm Phêrô run lên vì khiếp hãi.
            Trong khi Phêrô tin rằng mình đã hiểu biết sâu xa về kế hoạch của Thiên Chúa, ông ta nghe Chúa Giêsu nói về cuộc khổ nạn và cái chết, một ấn tượng về tương lai xem ra thất bại. Lòng vẫn còn đầy cảm xúc huy hoàng vừa qua, Phêrô bạo dạn và không do dự kéo Thầy ra để phản đối và can gián: điều này không được, không thể xảy ra, không chấp nhận được và chúng con không bao giờ cho phép xảy ra.
Nghe thế, Chúa Giêsu đổi sắc mặt, ngài giận dữ và quát mắng: "Sa-tan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người" (Mt 16, 23).
Lời trách mắng thật nặng nề, khủng khiếp. Phêrô kinh hãi, vừa được tán dương và phấn khích, giờ đây tất cả sụp đổ. Tất cả hình ảnh mà ông tạo nên cho mình, lâu đài mà ông đã xây dựng qua ơn gọi và sự ưu ái đặc biệt của Thầy mình, đã sụp đổ. Ông được gọi đầu tiên lên núi và điều đó đã làm ông phấn khởi, ông đã cảm nhận Thầy đã xem mình như người tín cẩn, như cánh tay phải, nhưng bây giờ lại bị đối xử thậm tệ, bị ném như giẻ rách, bị coi như Satan quỷ dữ. Chưa bao giờ ông nghĩ có thể bị trách mắng kinh khủng và tàn mạt đến thế. Ông đã tin rằng mình hiểu con đường Chúa muốn cho Thầy Giêsu, nhưng ông lại bị mắng nhiếc như là người chẳng biết chút gì về kế hoạch của Thiên Chúa, và chỉ phán đoán theo suy nghĩ nhân loại.
Chợt hiện lên trong đầu Phêrô lời phát biểu rất mạnh của tiên tri Isaia: “Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, đường lối của các người không phải là đường lối của Ta” (55, 8). Ông thấy mình đã bị sửa sai, bị xô ngã, và trở lại trạng thái mất tự tin mà ông thường bị. Ông thấy trở lại trong mình những cảm xúc thiếu thốn, không tương xứng, thường xảy ra trong đời. Nhưng quan trọng hơn hết là ông có ấn tượng là giữa ông và Thầy Giêsu dường như đã chấm dứt, Ngài đã bỏ rơi ông, Ngài đã loại ông. Ông cho rằng sau những gì ông đã nói chẵng còn ai nghe ông nữa; thậm chí những môn đệ khác còn trêu ghẹo, còn coi ông thiếu nghiêm chỉnh và không đáng tin.
Ông trải qua những giây phút hoãng loạn, và cả một chút giận dữ. Ông cắn môi và không dám trả lời.
 Nhưng Chúa Giêsu tiếp tục kiên nhẫn và can đảm chỉ dạy các môn đệ, hầu như không quan tâm đến sai trái và tự phụ của Phêrô, Ngài tiếp tục nói về tách biệt, từ bỏ chính mình, về sự cần thiết phải nói không với chính mình, cần phải sống đời sống mình thế nào: “Rồi Đức Giê-su nói với các môn đệ: "Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy” (Mt 16, 24-25).
Lúc này Phêrô nhận ra điều gì đằng sau lời quở mắng này. Nó như là một lời mời gọi mới, nó làm cho ông đối diện với một sự thúc bách phải hoán cải; không vỏ đoán về chính mình về sức mạnh của mình nữa; không tự lừa dối mình nữa, vì một vài an ủi hay soi sáng nội tâm, để tự đưa mình đến một nơi vô định, nhưng phải khiêm tốn, thận trọng, thinh lặng.
Đó là những điều nghịch với cá tính của Phêrô, ông không hi vọng đạt được. Nhưng Thầy Giêsu mạnh mẽ hơn chính ông, ông cảm nhận được ở Thầy sự tín nhiệm không đầu hàng trước những kháng cự của ông, tiếp tục lay chuyển, cho tới khi đưa ông tới được mức độ đúng đắn trong việc đánh giá về chính mình và về người khác.
Phêrô nhận ra biến cố này đúng là do Chúa quan phòng. Ông nhận ra mình bị khuất phục hoàn toàn. Một lần quở trách quý giá khiến ông bắt đầu việc cải đổi chính mình. Công việc khó khăn này của Phêrô đạt đến cực điểm trong những ngày sau hết của cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, khi ông chối Thầy, và kết quả cuối cùng là ông nhận được sự ủy nhiệm Chúa Giêsu tín cẩn trao cho, mà ông không bao giờ dám mơ. 

Ba lần chối Thầy

Chúng ta bước sang trình thuật xây dựng thứ hai trong hành trình hoán cải của Phêrô, trong đó vị tông đồ bộc lộ một lần nữa tất cả sự mỏng giòn của mình. Đó là trình thuật về ba lần chối Thầy, được thuật lại trong ba Tin Mừng nhất lãm cũng như trong trình thuật xử án của Tin Mừng thứ tư. Ở đây chúng ta suy niệm tin mừng Gioan 18, 1-8, 25-27.
“Ông Si-môn Phê-rô và một môn đệ khác đi theo Đức Giê-su. Người môn đệ này quen biết vị thượng tế, nên cùng với Đức Giê-su vào sân trong của tư dinh vị thượng tế. Còn ông Phê-rô đứng ở phía ngoài, gần cổng. Người môn đệ kia quen biết vị thượng tế ra nói với chị giữ cổng, rồi dẫn ông Phê-rô vào. Người tớ gái giữ cổng nói với ông Phê-rô: "Cả bác nữa, bác không thuộc nhóm môn đệ của người ấy sao?" Ông liền đáp: "Đâu phải". Vì trời lạnh, các đầy tớ và thuộc hạ đốt than và đứng sưởi ở đó; ông Phê-rô cũng đứng sưởi với họ”.
“Còn ông Si-môn Phê-rô thì vẫn đứng sưởi ở đó. Người ta nói với ông: "Cả bác nữa, bác không thuộc nhóm môn đệ của ông ấy sao?" Ông liền chối: "Đâu phải". Một trong các đầy tớ của vị thượng tế, có họ với người bị ông Phê-rô chém đứt tai, lên tiếng hỏi: "Tôi đã chẳng thấy bác ở trong vườn với ông ấy sao?" Một lần nữa ông Phê-rô lại chối, và ngay lúc ấy gà liền gáy”.
            Chúng ta thấy duờng như Phêrô bị thử thách này mà ông không nhận biết. Khi Chúa Giêsu bị bắt, bị trói, bị điệu đi, sau khi Ngài bảo Phêrô hãy xỏ gươm vào vỏ (x. Gioan 18, 1-12), ông bắt đầu càng mù mờ khó hiểu về Thầy mình hơn: tại sao không tự vệ? Tại sao không chấp nhận ít ra là hành vi tự vệ của tôi? tại sao không vũ trang? Nhưng ông cứ đi theo Chúa, không biết rõ tại sao, càng không có quyết định can thiệp để bênh vực ngài trong khi bị xét xử; có lẽ ông hi vọng, nhưng không biết phải làm gì cho Ngài. Nhờ môn đệ thầy yêu can thiệp, ông được vào sân dinh thượng tế. Ngay khi bước vào, ông bị hỏi: “Cả bác nữa, bác không thuộc nhóm môn đệ của người ấy sao?”
Phêrô thú nhận: tôi đã trả lời: “đâu phải”, mà không biết tại sao tôi làm vậy. Rồi tôi đứng ở đó cu rú như trời trồng, sưởi ấm, và thấy mình như rơi vào một trạng thái siêu thực, không còn ý niệm gì về việc mình đang làm. Và lần thứ hai họ hỏi tôi: “Cả bác nữa, bác không thuộc nhóm môn đệ của ông ấy sao?”, tôi lại chối lần nữa và đáp: “Đâu phải”. Kế đến, tôi lại bị một đầy tớ khác chất vấn, người này có bà con với người bị tôi chém đứt tai trong vườn Cây Dầu, anh hỏi: "Tôi đã chẳng thấy bác ở trong vườn với ông ấy sao? " Và tôi lại chối.
            Tại sao lại chối?
Chắc chắn là vì sợ, nhưng cũng rất có thể là vì tôi quá hoảng loạn. Khi nhận là không biết Ngài, tôi cũng tỏ ra cho thấy một chút về những gì tôi có trong lòng lúc đó. Câu trả lời của tôi cũng chứa đựng một sự thật nào đó, vì tôi không thể là môn đệ của một người bị làm nhục đến thế, người để mình bị đối xử tàn tệ đến vậy. Tôi đã thất vọng, tôi không còn hiểu nữa, một cách nào đó tôi có thể nói là không biết Ngài. Trong thâm tâm tôi đã không chấp nhận việc Thầy Giêsu chịu đau khổ và nhục nhã, nên tôi cũng không thể chấp nhận ý muốn của Thiên Chúa được bày tỏ trong sự nhục nhã như thế, cũng không thể chấp nhận một Thiên Chúa dính dáng đến con người đến độ để mình bị tiêu diệt trong con người thầyGiêsu. Điều này đòi tôi một sự vượt quá những gì mà tôi có thể.
Và chỉ cái nhìn của Chúa Giêsu - Phêrô nói tiếp - đã tác động đến tận đáy tâm hồn tôi, làm cho tôi hiểu ra tôi đang ở đâu, làm gì: “Ông Phê-rô trả lời: "Này anh, tôi không biết anh nói gì!" Ngay lúc ông còn đang nói, thì gà gáy. Chúa quay lại nhìn ông” (Lc 22, 61a) - cũng với động từ «emblébo» trong lần gặp gở đầu tiên[3]- với cái nhìn đầy cảm thương, thông cảm, và tha thứ. Và tôi nhớ lại lời Thầy đã nói truớc: “"Hôm nay, gà chưa kịp gáy, thì anh đã chối Thầy ba lần" (c.61b).
“Và ông ra ngoài, khóc lóc thảm thiết” (Lc 22, 62). Chúng ta có thể nhận ra chính ở đây lần hoán cải thứ hai của Phêrô, khi ông ta hiểu được rằng phải chấp nhận Chúa Giêsu như chính ngài, cần phải chấp nhận ý muốn của Thiên Chúa được tỏ bày nơi Đấng chịu đóng đinh trên thập giá,  nhục nhã, bị tra tấn, và bị giết. Đây chính là con đường của Chúa.

Con đường tình yêu

Chúng ta tìm thấy con đường được xác định trong phần cuối cùng mà chúng ta gọi là kết luận của ơn gọi hay hoán cải lần thứ hai của Phêrô. Chương 21 của Tin Mừng Gioan thuật lại: “Sau đó, Đức Giê-su lại tỏ mình ra cho các môn đệ ở Biển Hồ Ti-bê-ri-a. Người tỏ mình ra như thế này. Ông Si-môn Phê-rô, ông Tô-ma gọi là Đi-đy-mô, ông Na-tha-na-en người Ca-na miền Ga-li-lê, các người con ông Dê-bê-đê và hai môn đệ khác nữa, tất cả đang ở với nhau. Ông Si-môn Phê-rô nói với các ông: "Tôi đi đánh cá đây." Các ông đáp: "Chúng tôi cùng đi với anh." Rồi mọi người ra đi, lên thuyền, nhưng đêm ấy họ không bắt được gì cả.
Khi trời đã sáng, Đức Giê-su đứng trên bãi biển, nhưng các môn đệ không nhận ra đó chính là Đức Giê-su. Người nói với các ông: "Này các chú, không có gì ăn ư?" Các ông trả lời: "Thưa không." Người bảo các ông: "Cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền đi, thì sẽ bắt được cá." Các ông thả lưới xuống, nhưng không sao kéo lên nổi, vì lưới đầy những cá. Người môn đệ được Đức Giê-su thương mến nói với ông Phê-rô: "Chúa đó! " Vừa nghe nói "Chúa đó! ", ông Si-môn Phê-rô vội khoác áo vào vì đang ở trần, rồi nhảy xuống biển. Các môn đệ khác chèo thuyền vào bờ kéo theo lưới đầy cá, vì các ông không xa bờ lắm, chỉ cách vào khoảng gần một trăm thước.
Bước lên bờ, các ông nhìn thấy có sẵn than hồng với cá đặt ở trên, và có cả bánh nữa. Đức Giê-su bảo các ông: "Đem ít cá mới bắt được tới đây! " Ông Si-môn Phê-rô lên thuyền, rồi kéo lưới vào bờ. Lưới đầy những cá lớn, đếm được một trăm năm mươi ba con. Cá nhiều như vậy mà lưới không bị rách. Đức Giê-su nói: "Anh em đến mà ăn! " Không ai trong các môn đệ dám hỏi "Ông là ai?”, vì các ông biết rằng đó là Chúa. Đức Giê-su đến, cầm lấy bánh trao cho các ông; rồi cá, Người cũng làm như vậy. Đó là lần thứ ba Đức Giê-su tỏ mình ra cho các môn đệ, sau khi trỗi dậy từ cõi chết.
            Khi các môn đệ ăn xong, Đức Giê-su hỏi ông Si-môn Phê-rô: "Này anh Si-môn, con ông Gio-an, anh có mến Thầy hơn các anh em này không? " Ông đáp: "Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy." Đức Giê-su nói với ông: "Hãy chăm sóc chiên con của Thầy." Người lại hỏi: "Này anh Si-môn, con ông Gio-an, anh có mến Thầy không? " Ông đáp: "Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy." Người nói: "Hãy chăn dắt chiên của Thầy." Người hỏi lần thứ ba: "Này anh Si-môn, con ông Gio-an, anh có yêu mến Thầy không? " Ông Phê-rô buồn vì Người hỏi tới ba lần: "Anh có yêu mến Thầy không? " Ông đáp: "Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự; Thầy biết con yêu mến Thầy." Đức Giê-su bảo: "Hãy chăm sóc chiên của Thầy. Thật, Thầy bảo thật cho anh biết: lúc còn trẻ, anh tự mình thắt lưng lấy, và đi đâu tuỳ ý. Nhưng khi đã về già, anh sẽ phải dang tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn anh đến nơi anh chẳng muốn." Người nói vậy, có ý ám chỉ ông sẽ phải chết cách nào để tôn vinh Thiên Chúa. Thế rồi, Người bảo ông: "Hãy theo Thầy" (cc.1-19).
Chúng ta thấy  Phêrô đã lấy lại vai trò thủ lãnh trước khi Chúa hiện ra trên bờ hồ, ông đã được khôi phục lại từ cái nhìn của Chúa Giêsu và việc ông than khóc, hối cải, ăn năn vì  những điều đáng hổ thẹn của mình, và như thế ông có thể củng cố anh em. Nhưng phần cuối của trình thuật xác định là Phêrô đã hoán cải lần thứ hai, và lần hoán cải này cho phép ông nhắm vào bản chất, về cốt yếu. Thực ra ba câu hỏi về tình yêu Chúa Giêsu hỏi và vị tông đồ đã khiêm tốn trả lời là câu hỏi về chính bản chất, cốt lõi của mọi hoạt động, mọi công trình.
Ông ta được hỏi về tình yêu chứ không về đức tin, có lẽ vì trong giai đoạn cuối này tình yêu là căn nguyên. Dĩ nhiên đức tin là nguyên lý cho ơn cứu rỗi và việc công chính hóa, là chính con mắt của tình yêu. Trước tiên Thiên Chúa tuôn đổ tình yêu trong lòng chúng ta, và chính tình yêu này làm cho chúng ta tin, trao ban và phó thác chính mình.
Vì thế, Phêrô đã hoàn tất hành trình của mình khi ông nhận ra mình mỏng giòn – và ông ta nói rõ điều đó trong câu trả lời: Lạy Chúa, Chúa biết mọi sự, con không muốn xác quyết gì hết về chính mình, con không muốn mạo muội suy đoán gì hết – và khi Phêrô nghe câu hỏi về cốt lõi, về bản chất, tức là về tình yêu, là điều phải trở nên điểm quy chiếu của tất cả mọi hoạt động mục tử của ông, là nền tảng của tất cả những  gì ông sống sau ơn gọi hay lần hoán cải thứ hai.
Sau khi đã lược qua cách ngắn gọn những giai đoạn của cuộc hoán cải của Phêrô, và ghi nhớ những đoạn Tin Mừng nền tảng, giờ đây chúng ta bước qua phần suy niệm (meditatio).

Đâu là kết quả của lần hoán cải thứ hai?

Ơn gọi hay hoán cải lần thứ hai gồm tóm trong điều gì? Bước ngoặc này của cuộc sống bao hàm trong điều gì và đâu là kết quả của nó? Chúng ta sẽ cố gắng đưa ra một vài kết quả. Sau khi nghe những lời của Phêrô, chúng ta cũng tự hỏi mình là có thể xảy đến trong chúng ta một lời mời gọi mới hay một cuộc hoán cải mới, hay có lúc nào đó chúng ta có những cảm nghiệm giống như thế?
-          Kết quả đầu tiên là chúng ta nhận thức được chính sự mỏng giòn của mình, mà chúng ta không bao giờ đào sâu cho đủ. Thông thường từ khi còn trẻ chúng ta thường tự đánh lừa, chúng ta thường hứa hẹn, thai nghén nhiều kế hoạch; nhưng rồi chúng ta  nhận ra mình quá mỏng giòn. Dĩ nhiên là khó chấp nhận điều đó, và khi dự tính làm điều gì chúng ta muốn trở lại sự trong trắng ban đầu, một chút giống như khi còn nhỏ, muốn thoát khỏi mọi sự và trở lại thời mà mọi cái còn như tờ giấy trắng. Chúng ta luôn  ước muốn như thế; nhưng đến một lúc chúng ta phải chấp nhận là mình mềm yếu, mỏng giòn. Điều này tốt cho chúng ta, vì đặt chúng ta với trọn vẹn sự thật về mình trước mặt Chúa.
Điều này xảy ra cho mỗi người mỗi khác. Nó đã xảy ra với Phêrô qua một hình thức đầy thương đau, và có lúc cũng xảy ra tương tự một cách lạ kỳ cho những linh mục hay tu sĩ, với những kinh nghiệm bị dằn vặt hay bị tấn công tơi tả. Nhưng cũng có lúc dưới một hình thức nhẹ nhàng hay mờ nhạt hơn. Nhưng nói chung, đó là một giai đoạn phải xảy ra. Đây là yếu tố đầu tiên của ơn gọi hay sự hoán cải lần thứ hai.
- Một kết quả khác là việc ý thức rằng mình được tha thứ, và vì được tha thứ, chúng ta có thể thứ tha. Điểm lợi thế là trở nên một người chữa lành bị thương – nói theo H. Nowen- một người được tha thứ thứ tha, một người tội lỗi giúp cho những tội nhân khác nhận biết Chúa. Trong cuốn Bàn về việc sám hối ăn năn (Trattato sulla penitenza), thánh Ambrosio viết lời cầu xin: “mỗi lần đối diện với tội lỗi của một người sa ngã, xin cho con  tỏ cho họ lòng thương cảm, đừng cao ngạo quở mắng, nhưng than van khóc lóc, để khi than khóc người khác, con than khóc chính con”.
Có thể chúng ta không có được cảm xúc đó, nhưng phải ý thức rằng trước hết chúng ta đã được tha thứ, và việc chúng ta cần được tha thứ đưa chúng ta đến lòng thương xót, đến một sự thông cảm luôn tăng triển trong chúng ta; và đó là đường lối của Giáo Hội, cả trong tương lai, khi Giáo hội vẫn còn lữ hành.
- Kết quả thứ ba là sự xác tín chúng ta không hiểu biết Chúa, Thiên Chúa luôn nhiệm mầu, vượt quá những gì chúng ta có thể tưởng tượng về Ngài, - nói như K. Rahner - là một chân trời mà hành động, suy nghĩ và quyết định của chúng ta vô phương đạt thấu. Chúng ta luôn hướng về Ngài, xử sự theo Ngài, mà không bao giờ hiểu biết Ngài trực tiếp, chỉ trong khoảnh khắc chúng ta thấy Ngài như chính Ngài, chúng ta sẽ hiểu biết Ngài như chúng ta được cho hiểu: “Anh em thân mến, hiện giờ chúng ta là con Thiên Chúa; nhưng chúng ta sẽ như thế nào, điều ấy chưa được bày tỏ. Chúng ta biết rằng khi Đức Ki-tô xuất hiện, chúng ta sẽ nên giống như Người, vì Người thế nào, chúng ta sẽ thấy Người như vậy” (1Gioan 3,2); “Bây giờ chúng ta thấy lờ mờ như trong một tấm gương, mai sau sẽ được mặt giáp mặt. Bây giờ tôi biết chỉ có ngần có hạn, mai sau tôi sẽ được biết hết, như Thiên Chúa biết tôi” (1Cor 13,12).
Bởi vậy, chúng ta chỉ hiểu biết một phần nào đó về Thiên Chúa, trước hết là qua Chúa Giêsu, qua cách Ngài hành động, thực hiện, suy nghĩ hay quyết định.
- Một kết quả nữa do những biến cố đáng tiếc, đau khổ, hay đen tối mà chúng ta có thể đã trải qua, là ý thức về lòng nhân từ và thương xót của Chúa cho chúng ta, vì dù gì đi nữa Ngài cũng không bỏ rơi chúng ta, nhưng luôn ở kề bên và tiếp tục phục vụ cũng như lay động thức tỉnh chúng ta. Chúng ta được mời gọi khám phá những lời dạy Chúa ban cho trong những lúc khó khăn, khi dường như đã mất tất cả hay như đang đi vào tăm tối.
Có lúc quá khô khan trong cầu nguyện, lại làm phục hồi lại trong ta sự thật là cầu nguyện là ân huệ của Thiên Chúa, trong khi chúng ta lại tìm cách tổ chức lại thật chi tiết theo ý muốn của chúng ta, theo sự chế ngự của óc tưởng tượng. Có khi bệnh hoạn thân xác, hay được báo tin bị bệnh nặng, là một dịp để thực hiện một bước ngoặc hay nhận ra mình bất lực và cần một sự chấp nhận mới ý định của Thiên Chúa.
Thánh Phêrô dạy cho chúng ta rằng những khoảnh khắc đã qua, mà chúng ta còn có thể rút ra bài học và sự nâng đỡ cho tương lai, có lẽ là những khoảnh khắc quý giá nhất trong đời. Cũng như đối với Phêrô những thời khắc nản lòng và tăm tối lại là những bước quyết định trong hành trình hoán cải và trưởng thành nội tâm của mình, từ đó cứ tiến mãi, không quay trở lại.
- Cuối cùng, những giai đoạn như thế mang lại hoa trái vì làm cho chúng ta cảm nghiệm được lời mời gọi đến sự mật thiết mới và luôn sâu đậm hơn với Chúa Giêsu, tin tưởng phó thác vào Ngài, để Ngài sống và hành động trong chúng ta.
Chúng ta cám ơn thánh Phêrô vì đã thuật cho chúng ta những cảm nghiệm để nhận ra lời mời gọi của Chúa; đã giúp cho chúng ta nhận ra những cảm nghiệm đó trong đời sống, để trải qua và để vượt qua nó.
Xem ra ý niệm về hoán cải hay ơn gọi lần thứ hai được tìm hiểu quá giới hạn trong những thời điểm cụ thể; nhưng thực ra đây là một cảm nghiệm lan toả trong cuộc sống. Điều quan trọng là biết rằng nó hiện hữu, rằng chúng ta không hiểu biết đủ về đường lối của Thiên Chúa, rằng chúng ta mỏng giòn, yếu đuối và phải tha thứ cho người khác, phải học biết trước tiên tha thứ cho chính mình, để có thể thực thi lòng thương xót như chúng ta đã lãnh nhận. Như thánh Phao lô đã diễn tả cách tuyệt vời: “Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta. Người là Cha giàu lòng từ bi lân ái, và là Thiên Chúa hằng sẵn sàng nâng đỡ ủi an. Người luôn nâng đỡ ủi an chúng ta trong mọi cơn gian nan thử thách, để sau khi đã được Thiên Chúa nâng đỡ, chính chúng ta cũng biết an ủi những ai lâm cảnh gian nan khốn khó” (2Cor 1,3-4).
 Tất nhiên đây là con đường của người môn đệ. Con đường của hoán cải tận căn. Chúng ta không trưởng thành, không đạt đến sự khôn ngoan trong tâm hồn, nếu không trải qua những cảm nghiệm như thánh Phêrô đã bày tỏ cho chúng ta. Đó là con đường của người muốn thực sự theo Chúa Giêsu đến tận cùng.


[1] Lần thứ nhất khi ông được Chúa Giêsu gọi theo ngài, và ông bỏ mọi sự mà đi theo.
[2]  Bài suy niệm này phỏng theo bài lectio divina của Đức Hồng Y Carlo Maria Martini, dòng Tên, có tựa đề “La chiama alla nuova intimità con Gesù – Pietro, come sei diventato pastore?” trong cuộc tĩnh tâm cho các linh mục năm 2007. Bài này được thu tập cùng các bài suy niệm khác trong cuộc tĩnh tâm và in thành sách có tựa đề Il coraggio della passione – L’uomo contemporaneo e il dilemma della scelta, Milano: Piemme, 2010, tt. 71-90. Ngài vừa qua đời vào ngày 31/8/2012, từng là Giám Đốc Học Viện Thánh Kinh Roma và Đại Học Grêgôriô trước khi làm Tổng Giám Mục Milan vào năm 1979 và Hồng Y vào năm 1983.
[3]Đức Giê-su nhìn ông Si-môn và nói: "Anh là Si-môn, con ông Gio-an, anh sẽ được gọi là Kê-pha" (tức là Phê-rô)” (Ga 1, 42b).